Google News

Dệt may trước yêu cầu sản xuất xanh, đổi mới sáng tạo

TPO - Theo ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), bên cạnh những thách thức về thuế quan xuất khẩu, các doanh nghiệp dệt may đang đối mặt yêu cầu rất gắt gao về chuyển hướng sản xuất xanh, đổi mới sáng tạo, kiểm soát xuất xứ nguyên, phụ liệu cũng như đáp ứng các yêu cầu mới về chống lao động cưỡng bức khi tham gia các chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thách thức đổi mới sáng tạo

Theo ông Trương Văn Cẩm, Phó chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) năm 2025 đánh dấu sự phục hồi ấn tượng của ngành với các chỉ số nổi bật, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 46 tỷ USD, tăng 5,6% so với năm 2024. Xuất siêu ước đạt 21 tỷ USD, khẳng định vai trò trụ cột trong cán cân thương mại quốc gia. Tỷ lệ giá trị nội địa tăng thêm đạt khoảng 52%, cho thấy bước tiến lớn trong việc chủ động nguồn cung nguyên phụ liệu.

Cũng theo ông Cẩm, dệt may đang là ngành sử dụng lực lượng lao động lớn nhất trong kinh tế cả nước. Nếu tính số doanh nghiệp có từ 10.000 lao động trở lên, hiện có trên 7.300 doanh nghiệp với tổng số lao động gần 1,8 triệu người. Tính tất cả doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp siêu nhỏ có dưới 10 lao động, cả nước có 16.898 doanh nghiệp. Về xuất khẩu, hiện dệt may Việt Nam có mặt ở hầu hết các thị trường lớn trên thế giới, nhưng riêng hai khu vực Trung Đông và châu Phi, dù rất đông dân số nhưng doanh nghiệp Việt cũng chưa khai thác được.

Về tỷ trọng của doanh nghiệp FDI, theo ông Cẩm, VITAS đã có thống kê từ 2019 đến nay cho thấy, khối FDI chiếm tỷ trọng khoảng 58 đến 61% kim ngạch xuất khẩu. Như vậy doanh nghiệp trong nước đã chiếm gần 40% và thậm chí có năm trên 40%. Còn với da giày, tỉ lệ doanh nghiệp nội chiếm khoảng 28%. Đây là vấn đề tích cực.

a1-tuyen-dung-cong-nhan-may-da-nang-3-1.jpg
Từ 2019 đến nay, khối FDI ngành dệt may chiếm tỷ trọng khoảng 58 đến 61% kim ngạch xuất khẩu.

Theo lãnh đạo VITAS, bên cạnh những thách thức về thuế quan xuất khẩu, các doanh nghiệp dệt may đang đối mặt yêu cầu rất gắt gao về chuyển hướng sản xuất xanh, kiểm soát xuất xứ nguyên, phụ liệu cũng như đáp ứng các yêu cầu mới về chống lao động cưỡng bức khi tham gia các chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo đó, doanh nghiệp dệt may là các nhà cung cấp phải đáp ứng yêu cầu đến năm 2030 phải giảm 30% khí thải nhà kính và đến năm 2050 giảm phát thải khí nhà kính về 0. Đây là một trong những yếu tố quan trọng nếu các doanh nghiệp muốn tham gia vào chuỗi cung ứng cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia.

Cùng với các yêu cầu về xanh hóa, các doanh nghiệp dệt may cũng phải đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực cũng như nguồn vốn cho sản xuất nguyên vật liệu, đặc biệt sản xuất nguyên liệu rồi chuyển đổi kép kinh tế tuần hoàn. Đây là áp lực rất lớn với các doanh nghiệp dệt may do phải làm từng bước về nhu cầu tự chủ nguyên liệu nhưng cũng phải tranh thủ tối đa việc tận dụng ưu đãi các thuế quan của các Hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là các FTA mới.

“Để chuẩn bị cho lộ trình chuyển đổi này, trong những năm gần dây, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam và cả các doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam đã từng bước đưa ra các giải pháp để thích ứng với những yêu cầu của chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dù doanh nghiệp có nỗ lực đến mấy nhưng nếu không có sự chung tay hỗ trợ từ Chính phủ cho đến các địa phương và các hiệp hội, các doanh nghiệp cùng nhãn hàng, người lao động và tổ chức đại diện người lao động thì cũng khó có thể thành công cũng như đáp ứng được các yêu cầu ngày càng khắt khe hơn của các chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Cẩm chia sẻ.

tp-anh-2-bac-giang.jpg
Dệt may đối mặt bài toán chuyển đổi xanh trong sản xuất để đáp ứng các yêu cầu của thị trường

Phó Chủ tịch VITAS cũng cho rằng, hiện các doanh nghiệp dệt may cần tập trung cho việc liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp FDI, đặc biệt trong các môi trường biến động khó khăn.

“Các doanh nghiệp cần nhanh chóng đa dạng hoá về nguồn cung nguyên, phụ liệu, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, cả khách hàng cũng như sản phẩm cũng phải đa dạng. Như nguồn cung nguyên phụ liệu, chúng tôi rất muốn sử dụng nguyên phụ liệu từ Ấn Độ và Ấn Độ cũng mạnh về vấn đề này, nhưng các doanh nghiệp Việt cứ hợp tác một thời gian là phải đối mặt với việc chống bán phá giá. Vì vậy, việc tự chủ nguyên, phụ liệu phải thực hiện quyết liệt trong thời gian tới”, ông Cẩm chia sẻ.

Theo đánh giá của các doanh nghiệp dệt may, vấn đề được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm lúc này chính là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới sáng tạo cũng như là ứng dụng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Hiện Hiệp hội dệt may đang từng bước đẩy mạnh hợp tác với các cái tổ chức quốc tế. Cùng đó là đẩy mạnh liên kết doanh nghiệp, nhãn hàng trong bối cảnh thuế đối ứng được áp dụng với hầu hết các nước. Đây là lúc các doanh nghiệp trong ngành cần phải phối hợp cũng như liên kết chặt chẽ với các nhãn hàng để chia sẻ những rủi ro, cùng đưa ra các phương án để có thể chia sẻ với nhau bao nhiêu phần trăm anh chịu, bao nhiêu phần tôi chịu để cố gắng giữ lại những thị trường đang có thế mạnh.

Cần cầu nối từ các cơ quan quản lý

Ông Nguyễn Trọng Phi, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Tập đoàn Giovanni cho rằng, Giovanni cũng là một trong những công ty ‘đi ngược’ với ngành dệt may khi làm thương hiệu, sản xuất ở nước ngoài sau đó mới dịch chuyển sản xuất về trong nước và hướng đến xuất khẩu. Công ty hiện hướng đến làm sản phẩm ODM để mà chào bán cho các thương hiệu nước ngoài. Để hỗ trợ doanh nghiệp dệt may, theo ông Phi, cần tổ chức thường xuyên các triển lãm trong nước để các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá cho ngành dệt may da giày có cơ hội tiếp cận nhiều hơn, đồng thời đưa khách quốc tế đến Việt Nam.

Theo ông Phi, trước đây, khi doanh nghiệp đi triển lãm ở nước ngoài, do vấn đề chi phí nên không tiếp cận được những vị trí đắc địa tại các triển lãm nên rất ít khách hàng tiếp cận được các cái sản phẩm mà doanh nghiệp Việt muốn giới thiệu. Hiện năng lực phát triển mẫu của doanh nghiệp Việt có thể nói là chưa được tốt so với các nước. Đặc biệt, chúng ta cũng đang thiếu thị trường nhiên liệu, cụ thể là cái chợ nguyên, phụ liệu để người làm hàng mẫu, các công ty làm hàng mẫu ta sẵn sàng tiếp cận được.

“Hiện nay, khi cần làm mẫu cho một khách hàng nào đó, doanh nghiệp phải liên hệ với nhà cung cấp nguyên liệu từ Trung Quốc hoặc nước ngoài để họ gửi mẫu về. Hình thành một cái chợ nguyên phụ liệu cho cả ngành da giày và dệt may là điều doanh nghiệp đang rất cần”, ông Phi cho hay.

Ông cũng cho rằng, giải bài toán nguyên, phụ liệu cho cả ngành dệt may và da giày là vấn đề cần ưu tiên lúc này. Trong quy hoạch quốc gia có đề cập đến phát triển các khu công nghiệp dệt may, da giày nhưng thực tế hiện vẫn chưa có các vùng công nghiệp cho ngành dệt may và đặc biệt hiện vẫn không có các khu công nghiệp chuyên cho dệt may và nguyên phụ liệu mà mới chỉ có khu công nghiệp cho ngành may. Vì thế, khi các đối tác nước ngoài đến Việt Nam để tìm hiểu việc chuyển dịch sản xuất nguyên phụ liệu thường gặp khó khăn trong tìm kiếm các khu công nghiệp đủ điều kiện đáp ứng được cái tiêu chí cho sản xuất xanh do một địa phương không chào đón ngành dệt may và dệt nhuộm. Ngay với ngành may, vốn sử dụng nhiều lao động cho nên là nhiều tỉnh cũng không chào đón. Đặc biệt, ngành thuộc da và ngành nhuộm hiện rất khó khăn cho việc tìm kiếm các khu công nghiệp có đầy đủ các cái tiêu chuẩn còn những khu công nghiệp có sẵn cũng không còn vị trí trống nữa. Vì vậy, đây là lúc cần cầu nối từ các cơ quan quản lý để gỡ nút thắt cho ngành.