Google News

Con đường thoát nghèo nhờ liên kết sản xuất

TPO - Những năm gần đây, nhiều hộ dân ở phía tây tỉnh Quảng Ngãi đã mạnh dạn bước ra khỏi lối canh tác nhỏ lẻ để tham gia các mô hình liên kết sản xuất. Từ trồng trọt đến tiêu thụ đều được “bắt tay” chặt chẽ với doanh nghiệp, hợp tác xã, giúp nông sản ổn định đầu ra, nâng cao thu nhập. Những mô hình này đang mở ra hướng đi bền vững, đưa hàng trăm hộ đồng bào vùng cao thoát nghèo và từng bước làm chủ sinh kế.

Thoát nghèo từ những mầm chè non

Sáng sớm ở thôn Vi Choong (xã Kon Plông, tỉnh Quảng Ngãi), sương vẫn còn phủ mờ đồi núi, anh A Vững lom khom kiểm tra từng luống chè trước khi bắt đầu buổi thu hái. Đồi chè xanh mướt hôm nay từng là những khoảnh đất chỉ trồng mì (sắn) thu nhập thấp và bấp bênh.

Trước năm 2021, cuộc sống gia đình anh Vững quanh quẩn với vài sào mì cho thu nhập chẳng đáng là bao. Thu năm được, năm mất, giá cả phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái. Gia đình anh liên tục nằm trong danh sách hộ nghèo của xã.

Cuối năm 2021, nhờ Hợp tác xã (HTX) Chè sạch Đông Trường Sơn “bắt tay” hỗ trợ giống, phân bón và hướng dẫn cải tạo đất, anh mạnh dạn chuyển sang trồng 5 sào chè. Hai năm đầu, gia đình gần như dồn hết công sức để chăm từng gốc cây. Đến năm thứ ba, chè bắt đầu ổn định, tán xanh, rễ khỏe. Đến nay, anh đã có 2 năm liên tục thu hái.

4fb91506855b0a05534a.jpg
Nhờ liên kết sản xuất nhiều hộ dân ở vùng cao phía tây tỉnh Quảng Ngãi đã có đầu ra ổn định và vươn lên thoát nghèo bền vững.

“Mỗi năm vườn chè cho thu về hơn 30 triệu đồng dù cây còn nhỏ. Nhưng chè chỉ trồng một lần, thu được vài chục năm. Quan trọng là HTX thu mua với giá ổn định, nên hiệu quả cao hơn trồng mì rất nhiều lần”, anh Vững nói.

Ngoài trồng chè, anh còn đầu tư máy cày chở thuê nông sản, mở thêm nghề sửa xe máy. Tổng thu nhập của gia đình khoảng 200 triệu đồng/năm. Nhờ đó, gia đình anh đã thoát nghèo và trở thành một trong những hộ điển hình phát triển kinh tế của xã.

HTX Chè sạch Đông Trường Sơn hiện có 19 thành viên, canh tác hơn 60 ha chè sạch. Bên cạnh đó, HTX còn liên kết, hỗ trợ cây giống cho người dân trồng gần 50ha chè theo hướng hữu cơ. Mô hình được tổ chức theo chuỗi giá trị khép kín: sản xuất – thu mua – chế biến – tiêu thụ bảo đảm đầu ra ổn định cho người trồng chè. Đặc biệt, HTX chú trọng hướng dẫn thành viên, hộ liên kết canh tác theo hướng hữu cơ và thu mua sản phẩm với giá cao hơn thị trường.

Ông Nguyễn Công Hội - Giám đốc HTX Chè sạch Đông Trường Sơn cho biết, đơn vị hỗ trợ, liên kết với người dân trồng các giống chè chủ lực như PH8, Ô Long Kim Tuyên, San Tuyết... phù hợp với khí hậu Kon Plông, cho năng suất và chất lượng cao. “Chè tươi bán từ 9.000 – 50.000 đồng/kg, bình quân 1ha chè 6 - 7 năm tuổi cho doanh thu khoảng 200 triệu đồng/năm. Đây là nguồn thu vững chắc cho bà con vùng cao”, ông Hội chia sẻ.

3768515445227203108.jpg
Anh A Vững (trú thôn Vi Choong, xã Kon Plông) liên kết với HTX Chè sạch Đông Trường Sơn trồng 5 sào chè theo hướng hữu cơ.

Không riêng Kon Plông, các xã Tu Mơ Rông, Măng Ri, Đăk Hà, Măng Đen… cũng đang hình thành những chuỗi liên kết trồng cà phê xứ lạnh, rau củ quả, dược liệu. Gia đình chị Y Diang (trú thôn Kon Vơng Kia, xã Măng Đen) cũng từng là hộ nghèo, nhưng nay đã có cuộc sống mới từ việc liên kết sản xuất.

Từ năm 2023, chị bắt tay với HTX Rau xứ lạnh Măng Đen trồng 3 sào rau quả. Nhờ kỹ thuật được hướng dẫn bài bản, mỗi vụ (4 - 5 vụ/năm) đều cho thu nhập khoảng 20 triệu đồng. Chị còn đầu tư trồng gần 1ha cà phê xứ lạnh, cây ăn quả và mở homestay nhỏ. Nhờ đó, gia đình đã thoát nghèo và ổn định cuộc sống.

Tạo nền sản xuất bền vững từ liên kết

Tại xã Măng Đen (tỉnh Quảng Ngãi) địa phương có đến 70% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, mô hình liên kết được xem như “trụ cột” trong chiến lược giảm nghèo bền vững. Chủ tịch UBND xã Măng Đen Phạm Văn Thắng cho biết, xã hiện có 47 HTX với 502 thành viên, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và du lịch cộng đồng.

1725204849477967754.jpg
Từ những mầm chè xanh trên triền núi đến những luống rau xứ lạnh, mô hình liên kết sản xuất đang dần thay đổi diện mạo vùng cao phía tây Quảng Ngãi.

Nhiều năm qua, xã kiên trì rà soát hộ nghèo theo chuẩn đa chiều, từ đó đưa ra các chính sách hỗ trợ sản xuất, hướng dẫn kỹ thuật, kết nối người dân với doanh nghiệp tiêu thụ nông sản. Việc tuyên truyền, vận động bà con mạnh dạn đầu tư trồng cây mới, mạnh dạn chuyển đổi sản xuất đã mang lại hiệu quả rõ rệt. “Thời gian tới, xã sẽ tiếp tục tổ chức lại sản xuất theo nhóm hộ liên kết, HTX. Đồng thời đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật, chuyển đổi số trong nông nghiệp để tăng hiệu quả và minh bạch đầu ra”, ông Thắng nói thêm.

Tương tự, tại xã Kon Plông, Chủ tịch UBND xã Bùi Văn Đáp đánh giá các mô hình liên kết đang tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ. Trước đây, sản phẩm của người dân phụ thuộc thương lái nên giá cả bấp bênh. Nay, khi liên kết chuỗi giá trị, quy trình sản xuất được chuẩn hóa, chất lượng nông sản tăng rõ rệt và đầu ra đảm bảo.

Qua đó, đời sống người dân trên địa bàn xã ngày càng được cải thiện. Từ cuối năm 2024 đến nay, xã Kon Plông đã có 173 hộ thoát nghèo, 80 hộ thoát cận nghèo, chỉ còn 72 hộ nghèo và 146 hộ cận nghèo. Những con số này phản ánh quá trình thay đổi từ nhận thức đến cách làm của người dân vùng cao.

3339717898357372107-1.jpg
Chị Y Diang (bên trái), cùng nhiều hộ dân khác ở thôn Kon Vơng Kia (xã Măng Đen) liên kết trồng rau, củ, quả với HTX Rau xứ lạnh Măng Đen.

“Chúng tôi sẽ tiếp tục mở rộng diện tích các cây chủ lực như chè, cà phê xứ lạnh. Đồng thời tăng cường kiểm tra, tháo gỡ khó khăn để các mô hình liên kết phát huy hiệu quả, từ đó nâng cao thu nhập và hướng đến giảm nghèo bền vững”, ông Đáp nói.

Từ những mầm chè xanh trên triền núi đến những luống rau xứ lạnh, mô hình liên kết sản xuất đang dần thay đổi diện mạo vùng cao phía tây Quảng Ngãi. Không còn cảnh mạnh ai nấy làm, không còn nỗi lo được mùa mất giá, người dân giờ đây đã có thể chủ động tính toán con đường làm ăn dài hạn. Liên kết sản xuất tưởng như chỉ là một cái bắt tay, nhưng với đồng bào vùng cao, đó là cánh cửa mở ra hành trình thoát nghèo bền vững và tạo dựng tương lai no ấm.