'Bệ đỡ' thông tin giúp người dân Quảng Ngãi vững bước thoát nghèo

Ở nhiều vùng quê miền núi Quảng Ngãi, cái nghèo không chỉ đến từ thiếu vốn, thiếu đất sản xuất mà còn bắt nguồn từ sự thiếu hụt thông tin, kiến thức, kinh nghiệm làm ăn. Khi không nắm được chính sách, không biết cách chăn nuôi, trồng trọt hay tổ chức sản xuất, người dân dễ rơi vào vòng lẩn quẩn nghèo đói kéo dài.

Nhận diện rõ “điểm nghẽn” này, tỉnh Quảng Ngãi đã coi giảm nghèo về thông tin là một trụ cột quan trọng trong Chương trình Mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững, tạo “bệ đỡ” giúp người dân thay đổi nhận thức, từng bước chủ động vươn lên bằng chính nội lực của mình.

Tiếng loa vùng cao mở lối thoát nghèo

Buổi sáng ở xã Sơn Tây (tỉnh Quảng Ngãi), sương mù còn giăng kín lối đi. Khi nhiều nóc nhà vẫn im lìm trong làn khói bếp, ở phòng thu âm nhỏ tại Trung tâm Cung ứng dịch vụ công xã đã sáng đèn. Trong căn phòng kín, chị Đinh Thị Nương - chuyên viên của Trung tâm cẩn thận đọc từng dòng tin, từng bài viết về mô hình kinh tế hiệu quả, gương điển hình, mô hình hay, chính sách hỗ trợ sinh kế… bằng tiếng Cadong, thứ tiếng “mẹ đẻ” của đồng bào nơi đây.

Giọng đọc chậm rãi, mạch lạc của chị theo hệ thống loa truyền thanh vang ra sân, lan dần đến từng thôn, từng nóc nhà nằm cheo leo bên sườn núi. Với nhiều người dân Sơn Tây, địa phương vùng cao thuộc diện nghèo nhất tỉnh Quảng Ngãi, nơi đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới 90% dân số, bản tin buổi sáng không đơn thuần là thông tin thời sự. Đó còn là “cẩm nang sinh kế”, là nơi họ học được cách nuôi bò, trồng keo, trồng mì… cách tiếp cận vốn vay hay đơn giản là biết rằng mình đang được hưởng những chính sách gì của Nhà nước.

Chị Đinh Thị Nương - chuyên viên của Trung tâm Cung ứng dịch vụ công xã Sơn Tây đọc từng dòng tin về mô hình kinh tế hiệu quả, mô hình hay, chính sách hỗ trợ sinh kế… bằng tiếng Cadong.

“Ở đây, nếu một ngày không có bản tin, bà con như thiếu đi một phần sinh kế”, một cán bộ xã ví von. Bởi từ chính những nội dung được phát bằng tiếng Cadong ấy, nhiều hộ nghèo, cận nghèo đã mạnh dạn học theo các mô hình mới, áp dụng kỹ thuật vào sản xuất. Những con chữ trên mặt báo, qua giọng đọc của chị Nương, dường như “bước ra đời thật”, trở thành cây trồng, vật nuôi, là cơ hội đổi đời cho người dân bản địa.

Chị Đinh Thị Nương tâm sự, công việc “đọc chữ” tưởng chừng đơn giản nhưng lại đầy áp lực. Nếu đọc bằng tiếng Việt, nhiều người không hiểu hết nội dung, còn chuyển ngữ sang tiếng Cadong thì không phải lúc nào cũng tròn trịa, bởi có những khái niệm mới, thuật ngữ kỹ thuật rất khó diễn đạt. “Có chữ thì dịch được, có chữ thì phải diễn giải lại cho bà con dễ hiểu”, chị Nương nói.

Với mong muốn đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến gần hơn với người dân, gián tiếp mở lối thoát nghèo cho đồng bào vùng cao, chị Nương tự nhủ phải làm bằng tất cả sự tâm huyết. Ngoài giờ làm việc, chị học hỏi thêm từ đồng nghiệp đi trước, trau dồi kỹ năng chuyển ngữ, tìm cách diễn đạt sao cho gần gũi, dễ nhớ, dễ làm theo.

Theo ông Trương Viết Vũ - Giám đốc Trung tâm Cung ứng dịch vụ công xã Sơn Tây, giảm nghèo về thông tin là khâu then chốt trong giảm nghèo bền vững. Trung tâm hiện đang triển khai số hóa hệ thống truyền thanh cơ sở, đầu tư thêm cụm loa, ứng dụng công nghệ thông tin, viễn thông để nâng cao chất lượng truyền tải thông tin.

Nhờ “bệ đỡ” thông tin, nhiều hộ đã thoát khỏi cảnh nghèo kéo dài.

“Chúng tôi không chỉ phát tin, mà còn chọn lọc nội dung sát với nhu cầu thực tế của người dân, từ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi đến chính sách vay vốn, hỗ trợ sinh kế. Qua đó, giúp người dân là hộ nghèo, cận nghèo dễ dàng tiếp cận, áp dụng kiến thức vào thực tiễn sản xuất, khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường, tự chủ, hiểu rõ hơn con đường thoát nghèo bền vững”, ông Vũ nói thêm.

Không dừng ở truyền thông một chiều, cán bộ Trung tâm còn thường xuyên bám cơ sở. Khi người dân có thắc mắc trong quá trình chăn nuôi, trồng trọt, Trung tâm cung ứng dịch vụ công xã Sơn Tây sẽ phối hợp với các ngành chuyên môn để hướng dẫn trực tiếp theo kiểu “cầm tay chỉ việc”. Từ cách làm chuồng trại, chọn giống, phòng bệnh cho vật nuôi đến kỹ thuật canh tác phù hợp với thổ nhưỡng vùng cao, tất cả đều được hướng dẫn cụ thể, giúp người dân từng bước nắm chắc phương pháp sản xuất.

Nhờ “bệ đỡ” thông tin ấy, nhiều hộ đã thoát khỏi cảnh nghèo kéo dài. Gia đình anh Đinh Văn Buồn (thôn Đắk Trên) là một ví dụ điển hình. Từng là hộ nghèo, sau khi được tiếp cận thông tin chính sách, kỹ thuật chăn nuôi, cộng với nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước, anh Buồn mạnh dạn đầu tư nuôi bò sinh sản. Chăm sóc đúng kỹ thuật, đàn bò phát triển tốt, sinh sản đều. Chỉ sau vài năm, gia đình anh đã có đàn bò gần 10 con, kinh tế ổn định, chính thức thoát nghèo bền vững.

“Nếu không có cán bộ xã hướng dẫn, chia sẻ thông tin, định hướng cách làm ăn thì tôi không thể nào nghĩ tới chuyện thoát nghèo, Giờ gia đình đã chủ động được kinh tế, có của ăn của để, điều mà trước đây tôi chưa bao giờ dám nghĩ tới”, anh Buồn chia sẻ.

Quảng Ngãi đã đầu tư gần 1000 cụm loa, đây là phương tiện đưa thông tin đến gần hơn với người dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

Từ một trường hợp, phong trào học theo mô hình nuôi bò sinh sản lan rộng ra nhiều thôn, nhiều hộ. “Thoát nghèo” không còn là mục tiêu xa vời mà trở thành câu chuyện có thật, nhìn thấy được, chạm tới được ngay trong cộng đồng.

Theo ông Đinh Công Lập - Phó Chủ tịch UBND xã Sơn Tây, Tiểu dự án 1 về giảm nghèo thông tin (thuộc Dự án 6 của Chương trình Mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững) được xem là “đòn bẩy” quan trọng trong thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều. Nhờ triển khai đồng bộ, đến cuối năm 2025, toàn xã chỉ còn 116 hộ nghèo (chiếm 4,22%) và 38 hộ cận nghèo (1,38%).

Không chỉ “trao bò” mà trao cả tư duy thoát nghèo

Ở nhiều địa phương khác của tỉnh Quảng Ngãi, giảm nghèo bền vững cũng đang được triển khai theo hướng “không chỉ trao con cá, mà trao cả cần câu”. Mô hình hỗ trợ sinh kế gắn với truyền thông chính sách, hướng dẫn kỹ thuật và theo dõi sau hỗ trợ đã mang lại những chuyển biến rõ nét trong nhận thức và hành động của người dân.

Tại thôn Trường Lệ (xã Thiện Tín, tỉnh Quảng Ngãi) nơi đồng bào H'rê sinh sống đông đảo, đời sống còn nhiều khó khăn, mô hình trao bò giống sinh sản đang phát huy hiệu quả tích cực. Với bà Phạm Thị Chi, con bò vừa được nhận từ chương trình không chỉ là tài sản có giá trị, mà còn là “nguồn vốn” ban đầu để gia đình yên tâm đầu tư chăn nuôi. “Có con bò, mình mừng lắm. Như là có thêm vốn để sau này phát triển. Bên cạnh đó, các cán bộ còn cho đi học, đi dự hội thảo để biết cách nuôi, cách chăm sóc, nhờ vậy mình nắm được kiến thức”, bà Chi nói.

Điểm khác biệt của mô hình là không dừng ở việc trao con giống. Ngay sau đó, chính quyền địa phương và cán bộ chuyên môn thường xuyên theo dõi, kiểm tra, nhắc nhở các hộ thực hiện đúng cam kết, áp dụng đúng quy trình kỹ thuật. Các lớp tập huấn chăn nuôi, thú y được lồng ghép ngay tại thôn, giúp người dân nắm kiến thức cơ bản về chăm sóc, phòng bệnh cho bò.

Ông Cao Thanh Hà - Trưởng thôn Trường Lệ cho biết, thôn đã lập danh sách hộ nghèo, cận nghèo tham gia dự án và mở lớp thú y kéo dài nhiều tháng. Khoảng 20 hộ dân là người đồng bào dân tộc thiểu số đã được học bài bản, được cấp chứng nhận và hỗ trợ dụng cụ, thuốc thú y để chăm sóc bò.

Nhờ hỗ trợ bò giống và học kỹ thuật đã giúp cuộc sống của nhiều gia đình ở vùng cao Quảng Ngãi ổn định hơn.

Với chị Phạm Thị Bài (trú thôn Trường Lệ), việc được hỗ trợ bò giống và học kỹ thuật đã giúp cuộc sống gia đình ổn định hơn so với những năm trước. “Nếu tự bỏ tiền ra mua bò thì chắc không có đâu, vì người dân ở đây không có việc làm ổn định, không có ruộng rẫy. Nay được học chăn nuôi, biết cách cho ăn, cho uống, vệ sinh chuồng trại nên cũng yên tâm hơn”, chị Bài chia sẻ.

Theo ông Nguyễn Văn Duân - Phó Chủ tịch UBND xã Thiện Tín, truyền thông chính sách là yếu tố then chốt để mô hình phát huy hiệu quả. Địa phương tuyên truyền để người dân hiểu rõ chính sách của Đảng, Nhà nước, hiểu rằng hỗ trợ chỉ là bước đầu, còn thoát nghèo hay không phụ thuộc vào sự chủ động của mỗi hộ.

Từ mô hình trao bò giống sinh sản, chính sách giảm nghèo đã được cụ thể hóa bằng những việc làm sát thực tế, phù hợp với điều kiện của đồng bào dân tộc thiểu số. Quan trọng hơn, người dân đã dần thay đổi tư duy, từ trông chờ, ỷ lại sang chủ động học hỏi, tổ chức sản xuất, tính toán làm ăn lâu dài.

Khi thông tin được truyền tải đúng cách, sinh kế được hỗ trợ đúng nhu cầu và có sự đồng hành lâu dài của chính quyền, giảm nghèo không còn là sự “cho và nhận” đơn thuần. Đó là hành trình người dân tự đứng lên từ chính nội lực của mình, với “bệ đỡ” là tri thức, thông tin và niềm tin vào một tương lai tốt hơn.

Bà Huỳnh Thị Thu Thủy - Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL tỉnh Quảng Ngãi cho biết, thời gian qua, từ các nguồn lực của Chương trình Mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững, chương trình nông thôn mới, sở đã đầu tư gần 1000 cụm loa trên địa bàn toàn tỉnh, đây là phương tiện đưa thông tin đến gần hơn với người dân, nhất là người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

Cùng với đó, còn phối hợp với cơ quan báo chí trung ương, địa phương sản xuất các chương trình truyền hình về giảm nghèo thông tin để cung cấp thông tin, kiến thức giảm nghèo đến người dân một cách gần gũi, dễ nhớ, sinh động. Kết quả giảm nghèo thông tin đã đóng góp không nhỏ trong công tác giảm nghèo chung của tỉnh Quảng Ngãi.