Vì sao 'Nỗi buồn chiến tranh' được vinh danh?

Sau hơn ba thập kỷ kể từ khi ra đời, "Nỗi buồn chiến tranh" vẫn là một trong những tác phẩm gây nhiều tranh luận bậc nhất của văn học Việt Nam. Các chuyên gia cho rằng sự đối lập trong quan điểm là một trong những lý do khiến tác phẩm gây tranh cãi.

Bước ngoặt của văn học Việt Nam

Việc tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của tác giả Bảo Ninh được vinh danh trong lễ công bố bình chọn 50 tác phẩm văn học, nghệ thuật biểu diễn Việt Nam tiêu biểu, xuất sắc sau ngày đất nước thống nhất gây tranh cãi trong những ngày gần đây.

Nhiều chuyên gia, nhà lý luận phê bình văn học cho rằng những tranh cãi ấy không chỉ phản ánh những phản ứng khác nhau của độc giả, mà còn cho thấy sự dịch chuyển trong quan niệm thẩm mỹ, trong cách hiểu về ký ức chiến tranh và trong tiêu chuẩn đánh giá văn chương của từng thời kỳ.

Tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của tác giả Bảo Ninh được in, tái bản hàng chục lần trong những năm qua. Ảnh: T.Điểu.

TS. Hà Thanh Vân - Trung tâm Xúc tiến Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam - nhận định Nỗi buồn chiến tranh là một trong những tiểu thuyết đánh dấu bước ngoặt của văn học Việt Nam từ sau năm 1975, không chỉ về mặt nội dung mà còn vì phương thức nghệ thuật. Ở Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh không miêu tả chiến tranh như một trường đoạn chiến thắng, mà như một không gian đổ nát của tâm hồn, nơi con người vừa phải trải qua bi kịch của thời đại vừa đối diện với bi kịch của chính mình.

"Điểm làm nên giá trị đặc biệt của tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh chính là sự trung thực và nhân bản. Trung thực với cảm giác đau đớn, đổ vỡ, cô độc của người lính khi trở về đời thường. Nhân bản ở chỗ tác phẩm không kết án ai, mà mở ra một câu hỏi day dứt về sự ám ảnh của chiến tranh đối với số phận con người", TS. Hà Thanh Vân nêu.

Ở Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh miêu tả chiến tranh như một không gian đổ nát của tâm hồn.

TS. Hà Thanh Vân cũng khẳng định tác phẩm xứng đáng được vinh danh vì nó góp phần mở rộng biên độ tự do sáng tạo văn chương từ thời kỳ đổi mới. Nỗi buồn chiến tranh được ghi nhận không chỉ vì hay, mà bởi nó mở ra một cách nhìn khác, can đảm nói về những điều khó nói và can đảm đặt bi kịch con người ở trung tâm của cuộc chiến tranh.

Bên cạnh đó, việc tác phẩm được vinh danh là đồng nghĩa với việc lựa chọn một hệ giá trị là coi trọng sự thật nội tâm và trải nghiệm cá nhân hơn là các chuẩn mực diễn ngôn tập thể. Sự khác biệt này tất yếu dẫn đến phản ứng trái chiều.

Sự đánh đồng tác phẩm văn học hư cấu với tài liệu lịch sử

TS. Hà Thanh Vân nhận định tranh luận bùng lên cho thấy xã hội đang chuyển dịch trong cách nhìn về quá khứ chiến tranh, từ một diễn ngôn thống nhất sang sự công nhận tính đa giọng, đa điểm nhìn. Tranh cãi cũng chứng minh tác phẩm vẫn còn sức sống và khả năng gợi mở đối thoại sau hơn ba thập kỷ.

"Các tranh cãi xoay quanh Nỗi buồn chiến tranh không phải là tín hiệu tiêu cực mà phản ánh độ phức tạp và sức ảnh hưởng của tác phẩm này trong đời sống văn học. Một cuốn tiểu thuyết lớn luôn tạo ra nhiều cách đọc khác nhau. Nỗi buồn chiến tranh quan trọng nó đúng hay sai mà vì nó đặt ra vấn đề bi kịch của con người trong chiến tranh. Vấn đề ấy tiếp tục gây ám ảnh và cần được đối thoại trong bối cảnh hôm nay", TS. Hà Thanh Vân nêu.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa - thành viên Hội đồng chung khảo bình chọn 50 tác phẩm tiêu biểu sau thống nhất - đánh giá Nỗi buồn chiến tranh là cuốn sách hay. Ông cho rằng không phải ngẫu nhiên mà thế giới chọn tác phẩm này để dịch ra hàng chục thứ tiếng và phát hành trên nhiều quốc gia.

Nỗi buồn chiến tranh ra đời cuối thập niên 1980.

Những nhận định tranh luận nổ ra sau khi tác phẩm được vinh danh vì độc giả ngày nay có những điểm nhìn khác nhau về chiến tranh và văn học chiến tranh, thay vì sự đơn tuyến như trước đây. "Bảo Ninh đứng về chủ nghĩa nhân đạo mà nhìn cuộc chiến, nên cách ông viết về chiến tranh rất khác. Đọc xong tác phẩm của ông, chúng ta vẫn thấy người lính Việt Nam rất vĩ đại, nhưng để giành được chiến thắng thì cực kỳ gian khổ", ông chia sẻ.

Với diễn giả Trần Bằng Việt tranh cãi xoay quanh tác phẩm xuất phát từ việc một số người đang đánh đồng một tác phẩm văn học hư cấu với một tài liệu lịch sử. Nỗi buồn chiến tranh luôn được xác định là tiểu thuyết ngay từ lần đầu ra mắt. Nhiệm vụ của tiểu thuyết là khai thác thân phận con người, tập trung vào tâm lý, cảm xúc, và bi kịch cá nhân (nhân vật Kiên, Phương) để đạt đến một thông điệp nhân văn phổ quát.

"Tiểu thuyết có tính hư cấu, phóng đại nỗi đau và sự ám ảnh để làm rõ bản chất hủy diệt của chiến tranh. Khi chúng ta yêu cầu một cuốn tiểu thuyết phải tập trung ca ngợi tính chính nghĩa hay chiến công tập thể, chúng ta đang vô tình phủ nhận quyền tự do sáng tạo và giá trị nghệ thuật của nó. Sức mạnh của Bảo Ninh chính là ở chỗ ông đã dám nhìn thẳng vào bóng tối, sự mục rữa và nỗi buồn mà chiến tranh để lại, chứ không chỉ là ánh hào quang chiến thắng", diễn giả Trần Bằng Việt nêu.

Nỗi buồn chiến tranh là dòng hồi ức của người lính về chiến tranh và thời tuổi trẻ đã trải qua trong bom đạn. Tác phẩm của Bảo Ninh còn được xếp vào hàng những tiểu thuyết tiếng Việt nổi tiếng nhất trên thế giới khi có khoảng 20 bản dịch, hơn 10 giải thưởng và đề cử ở các quốc gia. Dù vậy, Nỗi buồn chiến tranh gặp nhiều sóng gió và liên tiếp gây bão trên văn đàn Việt vì những nhận xét trái chiều. Tác phẩm nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, sau đó bị cấm xuất bản từ năm 1993 đến 2005, đến 2006 mới được phép xuất bản trở lại.