Google News

Cây 'bệ đỡ' giảm nghèo bền vững cho Lục Ngạn

TPO - Từ một vùng thuần nông, xã Lục Ngạn (Bắc Ninh) đã từng bước chuyển mình, lấy cây vải thiều làm trụ cột phát triển kinh tế, tạo sinh kế ổn định, giảm nghèo bền vững và nâng tầm thương hiệu nông sản. Trao đổi với phóng viên Tiền Phong, Chủ tịch UBND xã Lục Ngạn Vi Văn Tư cho rằng, thành công của vải thiều hôm nay là kết quả của tư duy sản xuất nông nghiệp hiện đại, sự đồng thuận của người dân và cách làm bài bản, dài hơi của chính quyền cơ sở.

Thưa ông, Lục Ngạn được nhắc đến nhiều với thương hiệu vải thiều. Với góc nhìn của người đứng đầu chính quyền xã, ông đánh giá thế nào về vai trò của cây vải trong chiến lược giảm nghèo bền vững?

Ông Vi Văn Tư: Có thể nói thẳng rằng, vải thiều không chỉ là cây trồng chủ lực mà còn là “trụ cột sinh kế” của người dân Lục Ngạn. Xã Lục Ngạn có diện tích tự nhiên hơn 82 km², dân số trên 42 nghìn người, trong đó tỷ lệ lao động nông nghiệp còn cao. Việc lựa chọn đúng cây trồng, phát huy lợi thế tự nhiên là yếu tố quyết định trong bài toán giảm nghèo bền vững.

Vải thiều Lục Ngạn đã chứng minh được giá trị kinh tế vượt trội. Năm 2025, toàn xã Lục Ngạn có 3.320 ha vải, sản lượng đạt khoảng 25.025 tấn, tổng giá trị sản xuất hơn 300 tỷ đồng. Quan trọng hơn, cây vải tạo việc làm ổn định cho hàng nghìn hộ dân, không chỉ trong mùa thu hoạch mà quanh năm, từ chăm sóc, sơ chế, đóng gói đến dịch vụ phụ trợ. Nhờ đó, thu nhập của người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm bền vững qua từng năm.

z7359155282208-58e38778fa3f8caa7c045fea3ae2bc7b.jpg
Chủ tịch UBND xã Lục Ngạn Vi Văn Tư.

Không ít địa phương trồng vải, nhưng Lục Ngạn tạo dựng được thương hiệu riêng. Theo ông, yếu tố nào mang tính quyết định?

Ông Vi Văn Tư: Thương hiệu không tự nhiên mà có. Với Lục Ngạn, đó là quá trình kiên trì chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất theo tiêu chuẩn, theo chuỗi giá trị. Hiện nay, hơn 65% diện tích vải của xã Lục Ngạn sản xuất theo quy trình VietGAP, một phần đã đạt GlobalGAP; duy trì 20 mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu sang nhiều thị trường như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Úc, Thái Lan.

Chúng tôi xác định rất rõ: muốn giảm nghèo bền vững thì sản phẩm phải có đầu ra ổn định, giá trị cao. Vì vậy, xã đặc biệt chú trọng công tác quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, truy xuất nguồn gốc, kiểm soát chất lượng từ gốc. Chính sự nghiêm túc này đã tạo niềm tin cho doanh nghiệp, thương nhân và các thị trường khó tính.

Năm 2025 được đánh giá là một mùa vải nhiều thử thách. Chính quyền xã Lục Ngạn đã đồng hành cùng người dân như thế nào?

Ông Vi Văn Tư: Đúng vậy, năm 2025 thời tiết diễn biến khá phức tạp. Đầu vụ hạn hán kéo dài ảnh hưởng đến giai đoạn quả non, cuối vụ lại mưa nắng xen kẽ làm giảm chất lượng một số diện tích. Trước tình hình đó, UBND xã Lục Ngạn đã chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất từ rất sớm, phối hợp với ngành nông nghiệp tổ chức 25 lớp tập huấn kỹ thuật cho gần 800 lượt người dân.

Chúng tôi không chỉ hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh mà còn cập nhật kịp thời thông tin thị trường, khuyến cáo về thuốc bảo vệ thực vật, quy trình sản xuất an toàn. Cùng với đó là việc chỉ đạo quyết liệt công tác xúc tiến tiêu thụ, kết nối thương nhân, doanh nghiệp, không để người dân “tự bơi” khi vào vụ thu hoạch.

Công tác tiêu thụ được xem là “then chốt” trong giảm nghèo. Ông có thể chia sẻ rõ hơn về bức tranh thị trường vải thiều Lục Ngạn năm 2025?

Ông Vi Văn Tư: Năm 2025, toàn bộ sản lượng hơn 25 nghìn tấn vải của xã Lục Ngạn đều được tiêu thụ hết. Thị trường nội địa chiếm khoảng 60%, tập trung tại các đô thị lớn, hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại và các sàn thương mại điện tử. Xuất khẩu đạt khoảng 10 nghìn tấn, chủ yếu sang thị trường Trung Quốc.

Giá bán tuy có dao động do chất lượng từng vùng, từng thời điểm, nhưng nhìn chung đảm bảo lợi nhuận cho người trồng vải. Quan trọng hơn, hệ thống dịch vụ phụ trợ như thùng xốp, đá cây, điện, nước, vận tải, tài chính… đều được chuẩn bị đầy đủ, không xảy ra tình trạng ách tắc, ép giá hay thiếu hụt dịch vụ.

Được biết, xã Lục Ngạn đang gắn phát triển vải thiều với du lịch trải nghiệm. Mô hình này mang lại hiệu quả ra sao?

Ông Vi Văn Tư: Du lịch nông nghiệp là hướng đi mới nhưng rất tiềm năng. Mùa vải chín không chỉ là mùa thu hoạch mà còn là “mùa vàng” quảng bá hình ảnh địa phương. Năm 2025, xã Lục Ngạn đón khoảng 2.000 lượt khách tham quan, trong đó có khách quốc tế. Du khách được trải nghiệm hái vải tại vườn, thưởng thức các sản phẩm chế biến từ vải, tìm hiểu đời sống văn hóa bản địa.

tp-11.jpg
Cây vải thiều giúp người dân xã Lục Ngạn thoát nghèo bền vững.

Thông qua du lịch, giá trị quả vải được nâng lên, người dân có thêm nguồn thu từ dịch vụ, lưu trú, ẩm thực. Đây chính là cách giảm nghèo bền vững, đa sinh kế, không phụ thuộc hoàn toàn vào việc bán quả tươi.

Các hợp tác xã đóng vai trò như thế nào trong chuỗi giá trị vải thiều?

Ông Vi Văn Tư: Hợp tác xã là “xương sống” của sản xuất nông nghiệp hiện đại. Hiện xã có 20 HTX nông nghiệp, thương mại, dịch vụ hoạt động hiệu quả, nhiều HTX đã đứng ra tổ chức sản xuất, ký kết hợp đồng tiêu thụ, hướng dẫn kỹ thuật cho xã viên. Khi người dân liên kết lại, sản xuất có kế hoạch, có tiêu chuẩn thì khả năng đàm phán với doanh nghiệp và thị trường sẽ cao hơn, rủi ro giảm xuống.

Bên cạnh những kết quả tích cực, đâu là những “điểm nghẽn” cần tháo gỡ để vải thiều thực sự trở thành cây giảm nghèo bền vững?

Ông Vi Văn Tư: Thẳng thắn mà nói, chúng tôi vẫn đối mặt với không ít khó khăn. Biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét, chi phí đầu vào tăng cao. Công nghệ bảo quản, chế biến sâu chưa đáp ứng được yêu cầu; tỷ lệ vải tiêu thụ qua chế biến còn thấp. Du lịch nông thôn chưa đa dạng, dịch vụ lưu trú còn hạn chế.

Ngoài ra, chất lượng vải giữa các vùng trồng chưa đồng đều, ảnh hưởng đến giá bán và thương hiệu chung. Đây là những vấn đề chúng tôi đang tập trung khắc phục trong thời gian tới.

tp-c6.jpg
Cây vải thiều giúp nhiều nông dân ở Lục Ngạn làm giàu.

Vậy định hướng của Lục Ngạn trong năm 2026 là gì, thưa ông?

Ông Vi Văn Tư: Chúng tôi chỉ đạo Phòng Kinh tế, Trung tâm cung ứng dịch vụ sự nghiệp công xã Lục Ngạn tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật ngay sau kết thúc vụ vải về các biện pháp chăm sóc vải từng thời kỳ sinh trưởng, phát triển của cây, bám sát điều kiện thời tiết, khí hậu từng thời kỳ để đưa ra biện pháp kỹ thuật phù hợp, đặc biệt thời kỳ phân hoá mầm hoa, ra hoa, đậu quả trên cây vải.

Đồng thời, xã Lục Ngạn tổ chức các hội nghị tọa đàm, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm (giữa cán bộ kỹ thuật với nông dân; giữa nông dân với nông dân) trong việc xây dựng và nhân rộng các mô hình tiêu biểu. Chúng tôi chú trọng áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, quy trình thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP, GlobalGAP), công nghệ sản xuất sạch, công nghệ sinh học, nông nghiệp hữu cơ; khuyến khích xây dựng các mô hình nông nghiệp sinh thái, thân thiện với môi trường kết hợp với du lịch trải nghiệm.

Xã Lục Ngạn tăng cường công tác dự báo sâu bệnh hại, sinh trưởng phát triển của cây trồng để chủ động đưa ra khuyến cáo, phòng trừ sâu bệnh đạt hiệu quả. Bên cạnh đó, chúng tôi duy trì diện tích vải thiều đang có, tập trung hướng dẫn, chỉ đạo sản xuất vải theo quy trình VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm; quản lý tốt và cấp mới mã số vùng trồng gắn với tổ chức sản xuất theo tổ hợp tác, hợp tác xã; các cơ sở đóng gói quả tươi xuất khẩu.

Chúng tôi duy trì và phát triển thương hiệu vải thiều Lục Ngạn; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, quảng bá thương hiệu vải thiều trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời, xã Lục Ngạn xây dựng thực hiện đổi mới công tác xúc tiến, tiêu thụ theo hướng kết hợp giữa hình thức trực tuyến và truyền thống, phù hợp điều kiện, bối cảnh từng giai đoạn cụ thể; tăng cường công tác xúc tiến thương mại tại các thị trường tiềm năng, ứng dụng và phát huy có hiệu quả nền tảng xúc tiến thương mại điện tử và các hình thức xúc tiến tiêu thụ trên nền tảng số, hạ tầng internet.

Xin cảm ơn ông!