Phó Tổng Biên tập Báo Tiền Phong Lê Minh Toản:
Trong nhiều năm qua, chúng ta luôn tự hào về nông sản Việt ngày càng khẳng định được vị thế trên bản đồ thế giới. Những trái thanh long, sầu riêng, các loại rau củ quả đến những lô tôm, cá… mang thương hiệu Việt đã có mặt tại các siêu thị châu Âu; Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc… Đây là thành quả to lớn từ nỗ lực của nông dân, doanh nghiệp và của cả hệ thống chính trị.
Thế nhưng, ngay tại thị trường trong nước, nơi có hơn 100 triệu người tiêu dùng Việt lại đang đối diện với một thách thức không nhỏ. Hàng loạt sản phẩm nông sản, thực phẩm vừa bị cơ quan chức năng phát hiện dư lượng hóa chất cấm, thực phẩm giả mạo nhãn mác, không rõ nguồn gốc xuất xứ; tình trạng rau giả mạo rau sản xuất theo tiểu chuẩn VietGAP, chứng nhận xuất xứ hay sản phẩm kém chất lượng vẫn len lỏi trong các bếp ăn tập thể, trường học, chợ truyền thống, thậm chí là hệ thống siêu thị. Điều này gây hệ lụy trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng, làm giảm sút niềm tin của người dân, xã hội, vô tình gây ảnh hưởng đến những doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Chất lượng và an toàn thực phẩm không chỉ là câu chuyện của ngành Nông nghiệp, Công Thương, hay ngành Y tế. Đây là vấn đề của toàn xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân và uy tín quốc gia. Việt Nam hiện nằm trong nhóm nước có tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư cao, trong đó một phần nguyên nhân đến từ thực phẩm thiếu an toàn. Nếu chúng ta không quyết liệt hành động, cái giá phải trả sẽ vô cùng đắt.
Chính vì vậy, tọa đàm hôm nay với chủ đề: “Nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm nông sản trong nước: Chinh phục người tiêu dùng Việt” là diễn đàn để cơ quan quản lý, các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp và các chuyên gia chỉ ra những bất cập trong sản xuất - phân phối - kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm. Và quan trọng hơn, tại toạ đàm này chúng tôi mong muốn các quý vị nhìn thẳng vào thực trạng, chia sẻ giải pháp, kinh nghiệm trong nước và quốc tế góp phần nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm đối với hàng nông sản trong nước.
Ông Phạm Văn Duy - Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường:
An toàn thực phẩm (ATTP) trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản luôn được Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Nhờ những nỗ lực kiểm soát, các chỉ số giám sát ATTP đã cải thiện rõ rệt, đáp ứng yêu cầu khắt khe từ các thị trường như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Theo Luật ATTP và Nghị định 15, Bộ NN&MT được giao kiểm soát 19 nhóm sản phẩm gồm thịt, trứng, sữa tươi... Việc quản lý tập trung vào sản xuất ban đầu và chế biến, phân công cụ thể cho các đơn vị chuyên ngành. Riêng Cục Chất lượng Chế biến và Phát triển thị trường đóng vai trò nòng cốt, tham mưu xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn ATTP, bảo đảm phù hợp thông lệ quốc tế và thực tiễn trong nước.
Kết quả cho thấy, nhiều chỉ số đạt mức tích cực: 98,65% cơ sở sản xuất kinh doanh được chứng nhận đủ điều kiện ATTP; hơn 99% mẫu thực phẩm được giám sát đạt yêu cầu; trên 93% cơ sở ký cam kết tuân thủ quy định ATTP. Những kết quả này tạo tiền đề để nông lâm thủy sản Việt Nam mở rộng xuất khẩu, chinh phục các thị trường khó tính.
Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm luôn được duy trì nghiêm ngặt, với sự chuyển đổi từ thanh tra theo kế hoạch sang thanh tra đột xuất. Hằng năm, ngành tổ chức khoảng 25.000 - 30.000 lượt thanh tra cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản, qua đó xử lý vi phạm và nâng cao ý thức tuân thủ của doanh nghiệp.
Nhìn chung, hệ thống quản lý ATTP nông lâm thủy sản đang ngày càng hoàn thiện, góp phần bảo đảm sức khỏe người tiêu dùng trong nước, đồng thời nâng cao uy tín hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn - Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thi trường trong nước - Bộ Công Thương:
Theo số liệu của Bộ Công Thương, tính đến 31/12/2024, cả nước có 8.274 chợ, 276 trung tâm thương mại và 1.293 siêu thị. Trong đó, chợ và trung tâm thương mại là nơi tập trung nhiều cơ sở kinh doanh, trong đó có kinh doanh thực phẩm. Siêu thị cũng được xem là một cơ sở kinh doanh thực phẩm có quy mô lớn.
Việc quản lý ATTP tại các cơ sở này được thực hiện theo các quy định pháp luật liên quan đến cơ sở kinh doanh thực phẩm, như Nghị định số 77/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 và các nghị định sửa đổi, bổ sung sau đó (Nghị định số 08/2018/NĐ-CP, Nghị định số 17/2020/NĐ-CP). Theo đó, nhiều siêu thị và cơ sở kinh doanh thực phẩm trong trung tâm thương mại thuộc diện bắt buộc phải có giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, tại các chợ truyền thống, đa số cơ sở kinh doanh vẫn chỉ dừng lại ở hình thức hộ kinh doanh nhỏ lẻ, nhiều nơi chưa đáp ứng đầy đủ điều kiện ATTP.
Thực tế cho thấy, tại siêu thị và trung tâm thương mại - vốn chủ yếu thuộc sở hữu doanh nghiệp, tập đoàn lớn - công tác bảo đảm ATTP thường được chú trọng hơn, nhằm bảo vệ thương hiệu. Ngược lại, tại chợ truyền thống, việc kiểm soát còn nhiều hạn chế. Phần lớn các cơ sở kinh doanh thực phẩm tại chợ chủ yếu buôn bán hàng tươi sống, việc truy xuất nguồn gốc hàng hóa gặp khó khăn, trong khi kiến thức về ATTP của các tiểu thương còn nhiều hạn chế.
Ông Nguyễn Quý Dương - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật
Công tác quản lý an toàn thực phẩm hiện nay được phân công cho ba Bộ: Bộ Y tế, Bộ Công Thương và Bộ NN&MT. Trong đó, Bộ NN&MT quản lý theo chuỗi: sản xuất thuộc lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi do Cục Thú y quản lý, còn thủy sản thuộc Tổng cục Thủy sản.
Đối với lĩnh vực trồng trọt, khâu sản xuất là yếu tố quan trọng nhất trong bảo đảm an toàn thực phẩm. Việt Nam hiện có khoảng 10 triệu hộ nông dân với diện tích rau 1,15 triệu ha và cây ăn quả khoảng 1,3 triệu ha. Nguồn cung này không chỉ phục vụ tiêu dùng trong nước mà còn dành cho xuất khẩu, nên chất lượng sản phẩm luôn được cả người tiêu dùng nội địa và các thị trường nhập khẩu đặc biệt quan tâm.
Theo ông Dương, muốn có thực phẩm an toàn thì gốc rễ phải bắt đầu từ sản xuất. Từ năm 2008, Bộ NN&MT đã ban hành quy định và khuyến khích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, sau đó Chính phủ cũng có chính sách hỗ trợ. Hiện nay, có hai hệ thống chứng nhận chính là VietGAP và GlobalGAP, tuy nhiên đây không phải là quy định bắt buộc mà chỉ mang tính khuyến khích, theo hướng thúc đẩy sản xuất an toàn, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường sinh thái.
Tuy vậy, diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn hiện nay còn rất khiêm tốn. Theo kết quả điều tra 5 năm một lần, công bố năm 2024, tổng diện tích được chứng nhận VietGAP mới đạt khoảng 150.000 ha cho 6 nhóm cây trồng, trong đó riêng rau chỉ đạt hơn 8.000 ha trên tổng số 1,15 triệu ha - tức chưa đến 1% (khoảng 0,5 - 0,6%). Với cây ăn quả, diện tích trồng theo tiêu chuẩn VietGAP đạt khoảng 76.000 ha; chè khoảng 5.200 ha.
Nếu tính cả các chứng nhận khác, bao gồm GlobalGAP, tổng diện tích đạt khoảng 440.000 ha. Trong đó, rau cũng chỉ có hơn 8.400 ha, còn cây ăn quả đạt khoảng 78.000 ha. Đây là con số rất khiêm tốn so với quy mô sản xuất và nhu cầu tiêu thụ hiện nay. Rau - mặt hàng được người dân sử dụng hằng ngày, chủ yếu tiêu thụ nội địa - có tỷ lệ sản xuất theo chuẩn an toàn cực thấp. Với trái cây, diện tích có chứng nhận nhiều hơn nhưng chủ yếu phục vụ xuất khẩu.
Ông Dương cho rằng, từ năm 2012 đến nay, mặc dù đã có chính sách khuyến khích phát triển VietGAP và các tiêu chuẩn tương tự, nhưng sau hơn 10 năm, diện tích thực tế vẫn còn quá ít. Ngoài VietGAP, hiện nay cũng có một hình thức cam kết sản xuất an toàn do nông dân ký trực tiếp với bên tiêu thụ sản phẩm, song quy mô còn nhỏ lẻ, phân tán.
Ông Nguyễn Văn Mười - Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam
Để đảm bảo ATTP, yếu tố cơ bản nhất là phải có quy trình sản xuất chuẩn, trong đó VietGAP là yêu cầu tối thiểu. Tuy nhiên, theo báo cáo, hiện chỉ khoảng 5-6% rau đạt tiêu chuẩn này. Khi tiêu chuẩn tối thiểu không được đáp ứng, chúng ta đang buông lỏng chất lượng và người tiêu dùng phải gánh chịu hậu quả. Đã đến lúc cần có các biện pháp mạnh mẽ hơn để kiểm soát hàng hóa lưu thông trên thị trường.
Điều người tiêu dùng quan tâm nhất là dư lượng hóa chất, điều mà cơ quan bảo vệ thực vật cần nâng cao trách nhiệm. Các sản phẩm bảo vệ thực vật phải được quản lý theo đơn, không thể mua tùy tiện. Tùy từng loại thuốc, thời gian cách ly có thể kéo dài từ vài tuần đến vài tháng. Nếu người sản xuất không có ý thức, người tiêu dùng sẽ là người chịu thiệt. Do đó, cần tăng cường tuyên truyền và quản lý.
Về thị trường, hiện chúng ta có ba kênh tiêu thụ chính: Bán lẻ hiện đại, chợ truyền thống và các cửa hàng rải rác. Trong khi chợ và hệ thống siêu thị còn có thể quản lý, các cửa hàng nhỏ lẻ thì rất khó kiểm soát. Vì vậy, cần phát triển các điểm bán tập trung để dễ quản lý, giảm rủi ro cho người tiêu dùng. Cần hạn chế hình thức bán hàng rải rác, tràn lan trên vỉa hè, lề đường. Hoạt động bán lẻ cần được chú trọng hơn trong sự quản lý chặt chẽ với quy định nghiêm ngặt.
Các cơ sở sản xuất cũng cần đáp ứng tiêu chuẩn trước khi đưa sản phẩm ra thị trường. Một nông dân mỗi năm có thể cung cấp hàng chục, thậm chí hàng trăm tấn rau, nhưng hiện vẫn chưa có biện pháp quản lý an toàn tương xứng. Đây chính là lỗ hổng quản lý cần được chú trọng siết chặt.
PGS, TS. Nguyễn Duy Thịnh - chuyên gia công nghệ sinh học và thực phẩm:
Tình trạng mất an toàn thực phẩm là vấn đề lớn, lãnh đạo Chính phủ, bộ, ban ngành cũng rất lo lắng.
Việc nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm, nông sản trong nước nếu chỉ áp dụng bằng cơ chế kiểm soát thì không thể biến chuyển được, và nước ta không đủ nhân lực để kiểm soát hết. Vì thế, theo tôi hãy để người nông dân tự kiểm soát mình. Người nông dân không vô nhân đạo, không muốn làm hại chính đồng bào mình, mà người dân hoặc là không biết, hoặc là không hiểu.
Vì thế cần nâng cao ý thức người dân, việc của các cơ quan chức năng là làm thế nào để người dân biết, để người dân hiểu mà không sử dụng các chất cấm, dư lượng thuốc BTVT trong sản xuất nông sản, thực phẩm, bởi nếu người biết mà cố tình làm sai thì đó là vi phạm pháp luật.
Chúng ta cần nhiều cuộc trao đổi để người dân hiểu, hội nông dân, hội phụ nữ… vào cuộc để cập nhật thông tin cho nông dân để họ làm cho đúng. Ví dụ cần dùng phân bón gì, dùng thuốc trừ sâu gì,…
Nhiều người dùng các sản phẩm trôi nổi trên thị trường dẫn đến nhiều mặt hàng không đảm bảo tiêu chuẩn của nước nhập khẩu, nhiều mặt hàng bị từ chối thông quan, trả lại hàng gây thiệt hại lớn. Để khắc phục tình trạng đó, theo tôi cơ quan chức năng cần có danh mục những hóa chất không được dùng trong nông nghiệp, như 1 quyển sổ tay cho người nông dân.
Bên cạnh đó, nên sử dụng lực lượng học sinh sinh viên trong việc tuyên truyền về các loại thuốc bảo vệ thực vật. Dùng lực lượng toàn dân để nâng cao ý thức người nông dân.
Hiện nay, nền nông nghiệp nước ta rất phát triển, hướng đến xuất khẩu rất nhiều. Thế nhưng, nhiều người tránh né về an toàn thực phẩm, không đảm bảo chất lượng, vẫn nhắm mắt xuất khẩu, với mong muốn hên xui xuất khẩu trót lọt. Vì thế nhiều mặt hàng không đáp ứng được yêu cầu về tiêu chuẩn xuất khẩu và bị trả về như: dưa hấu, sầu riêng, thanh long…
Chúng ta cần nhiều biện pháp song hành để làm cách nào để dân hưởng thụ được nền nông nghiệp an toàn, chất lượng. Điều này có thể tóm tắt gọi là thực phẩm nông sản phải “ngon và lành”. Đây là 2 yếu tố quan trọng nhất để ngành nông nghiệp phát triển, nông sản được yêu quý trên thị trường, nông dân phát triển thì đất nước cũng phát triển.
Đại diện Sở NN&MT Hà Nội:
Hà Nội là thị trường tiêu thụ lớn nông lâm, thuỷ sản; tỷ lệ đảm bảo ATTP trên địa bàn Hà Nội là trên 97%.
Việc kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm từ khâu sản xuất đến tiêu thụ là rất quan trọng. Để duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm, thành phố đã xây dựng hệ thống quản lý ATTP từ cấp thành phố tới xã, phường. Công tác phối hợp giữa các sở, ngành như nông nghiệp, y tế, công thương được triển khai thường xuyên nhằm giám sát thị trường, đồng thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
Hà Nội cũng khuyến khích các doanh nghiệp, hợp tác xã áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, HACCP, góp phần nâng cao chất lượng nông sản, thực phẩm cung ứng cho người dân.
Một điểm nhấn trong quản lý là việc ứng dụng công nghệ thông tin để truy xuất nguồn gốc. Thành phố đã triển khai hệ thống sử dụng mã QR, mã vạch điện tử, cho phép minh bạch thông tin từ khâu sản xuất đến tiêu thụ, giúp người tiêu dùng dễ dàng kiểm chứng nguồn gốc thực phẩm. Tuy nhiên, việc áp dụng còn gặp khó khăn do nhiều cơ sở sản xuất hạn chế về cơ sở vật chất và kỹ năng số, nên hiện mới dừng lại ở mức khuyến khích.
Song song, Hà Nội tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá các mô hình sản xuất, kinh doanh an toàn; phối hợp với các cơ quan truyền thông công khai vi phạm để răn đe, đồng thời hướng dẫn người dân cách sử dụng công cụ truy xuất nguồn gốc. Các giải pháp đồng bộ này được kỳ vọng sẽ củng cố niềm tin của người tiêu dùng đối với thực phẩm tiêu thụ tại Thủ đô.
Bà Lê Hằng - Phó Tổng Thư ký VASEP:
Trong nhiều năm qua, thủy sản Việt Nam đã vươn ra nhiều thị trường khó tính trên thế giới, đáp ứng các yêu cầu khắt khe về kiểm soát, an toàn và chất lượng. Xuất khẩu trở thành trung tâm, nhưng câu hỏi đặt ra là vì sao việc thâm nhập thị trường nội địa lại khó khăn, nhất là khi xuất khẩu ngày càng gặp thách thức, với hàng loạt rào cản kỹ thuật, quy định chứng nhận, vấn đề giá cả và trợ cấp. Đặc biệt, trong năm nay, doanh nghiệp buộc phải nhìn lại thị trường trong nước vốn bị bỏ quên suốt nhiều năm qua.
Nguyên nhân có cả yếu tố chủ quan và khách quan. Về chủ quan, phần lớn doanh nghiệp thủy sản có lịch sử gắn chặt với xuất khẩu, tư duy kinh doanh định hình từ nhu cầu thế giới, trong khi thu nhập bình quân trong nước trước đây còn thấp. Vì vậy, khi quay trở lại, việc đầu tư cho thị trường nội địa đòi hỏi cách tiếp cận khác. Nhiều doanh nghiệp chưa chú trọng tới xây dựng thương hiệu, truyền thông và kể câu chuyện sản phẩm cho người tiêu dùng. Việc tiếp cận hệ thống phân phối còn bảo thủ, chủ yếu dựa vào một số kênh truyền thống. Theo thống kê, chỉ khoảng 20 – 25% doanh nghiệp thủy sản có ứng dụng thương mại điện tử bài bản.
Về khách quan, trước hết là tình trạng thiếu thông tin. Trong khi thị trường quốc tế thường xuyên có báo cáo nghiên cứu chi tiết, thì ở trong nước lại thiếu khảo sát về nhu cầu, xu hướng tiêu dùng, đặc thù từng vùng miền. Điều này khiến doanh nghiệp khó xây dựng chiến lược phù hợp. Thói quen của người tiêu dùng cũng là một rào cản: phần đông người dân vẫn ưa chuộng thủy sản tươi sống, chưa nhận thức rõ sự khác biệt về chất lượng giữa sản phẩm đông lạnh, chế biến và hàng tươi sống. Tâm lý “chỉ có tươi mới ngon” vẫn tồn tại, đặc biệt ở khu vực nông thôn, dẫn đến sự dè dặt khi lựa chọn sản phẩm chế biến hoặc đông lạnh.
Dù hệ thống bán lẻ trong nước hiện nay rất đa dạng, từ siêu thị, trung tâm thương mại đến chuỗi cửa hàng tiện lợi, song doanh nghiệp thủy sản vẫn gặp nhiều rào cản. Đó là yêu cầu chiết khấu cao, chi phí logistics, cùng những quy định phức tạp khiến giá thành đội lên. Thậm chí, việc đảm bảo hàng hóa được trưng bày đúng vị trí trên kệ cũng là thách thức.
Ông Bùi Bá Chính - Giám đốc Trung tâm Mã số mã vạch quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ:
Thời kỳ đổi mới, Việt Nam từng sản xuất nhiều sản phẩm hữu cơ - loại được coi là “sạch nhất”. Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế thị trường thay đổi đòi hỏi thể chế và cách thực thi chính sách cũng phải đổi mới, trong đó trọng tâm là sửa đổi pháp luật.
Luật Chất lượng Sản phẩm, Hàng hóa (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tháng 6/2025, có hiệu lực từ 1/1/2026, dựa trên bốn triết lý mới.
Triết lý đầu tiên là chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, nhằm tránh cản trở lưu thông hàng hóa. Thứ hai là, chuyển đổi số toàn diện để bù đắp cho lực lượng quản lý mỏng, đồng thời tạo ra một hệ thống giám sát minh bạch, cho phép cơ quan quản lý, doanh nghiệp và người dân cùng khai thác dữ liệu, từ đó xây dựng chính sách phù hợp, ví dụ điều tiết nhập khẩu thuốc bảo vệ thực vật.
Triết lý thứ ba là phân loại rủi ro và bắt buộc truy xuất nguồn gốc đối với hàng hóa rủi ro cao, đặc biệt là thực phẩm. Luật cũng làm rõ sự khác biệt giữa quy chuẩn - mức tối thiểu bắt buộc - tiêu chuẩn - mục tiêu là khuyến khích doanh nghiệp hướng tới.
Cuối cùng là việc ghi nhãn điện tử và “hộ chiếu số” sản phẩm được công nhận song song với ghi nhãn vật lý; trong đó hộ chiếu số bắt buộc cho hàng xuất khẩu sang châu Âu, nhất là pin, da giày, dệt may, thép, thực phẩm. Song song, Luật An toàn thực phẩm cũng đang được sửa đổi nhằm huy động toàn hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân cùng tham gia.
Như vậy, dù ở vị trí nào - người tiêu dùng, nhà sản xuất hay cơ quan quản lý - tất cả đều phải có trách nhiệm chung để hướng tới thực phẩm sạch và môi trường sống an toàn hơn.
Ông Nguyễn Văn Tuế - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dabaco Việt Nam:
Trong định hướng phát triển, Dabaco xây dựng chuỗi thực phẩm sạch, khép kín từ trang trại đến bàn ăn. Bên cạnh chăn nuôi, trong 5 năm gần đây chúng tôi phát triển thêm mảng dầu ăn và dầu đậu tương.
Hiện tại, tập đoàn có 7 nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi và thủy sản, với công suất dự kiến năm nay đạt 5 triệu tấn thức ăn chăn nuôi và khoảng 1 triệu tấn thức ăn thủy sản. Trong đó, khoảng 80% nguyên liệu được nhập khẩu, đều phải qua ba vòng kiểm soát: Từ phía nhà xuất khẩu, cơ quan quản lý nhà nước, và kiểm duyệt nội bộ của doanh nghiệp. Khoảng 20% còn lại mua trong nước, nhưng cũng đảm bảo tiêu chuẩn không mốc, không mọt, không chất cấm.
Trong sản xuất, Dabaco tuân thủ tuyệt đối quy định không dùng kháng sinh, thay thế bằng các loại a xít hữu cơ để ức chế mầm bệnh. Như vậy, chúng tôi tự tin khẳng định 70% chi phí nuôi - chính là thức ăn - đã được đảm bảo sạch và an toàn.
Ở mảng chăn nuôi, tập đoàn tập trung vào lợn và gà. Với chăn nuôi heo, quy mô hiện đạt 60.000 nái, sản lượng mỗi năm khoảng 160.000 tấn thịt lợn thương phẩm. Đàn lợn được nuôi trong chuồng trại hiện đại, nhập khẩu thiết bị từ châu Âu, tự động hóa hoàn toàn về nhiệt độ, thức ăn và nước uống. Quy trình chăn nuôi khép kín, tiêm phòng đầy đủ, nên đàn lợn phát triển tốt và hầu như không mắc dịch bệnh.
Đặc biệt, Dabaco đã phối hợp với đối tác Hoa Kỳ sản xuất thành công vắc xin dịch tả lợn châu Phi, được Bộ NN&MT cấp phép từ tháng 4. Hiện, chúng tôi chủ yếu sử dụng cho nội bộ tập đoàn để phòng bệnh, đảm bảo đàn lợn xuất ra thị trường an toàn.
Với gà, Dabaco tập trung sản xuất giống. Quy mô hiện nay khoảng 200.000 gà ông bà, 600.000 gà bố mẹ, cho ra khoảng 60 triệu gà giống mỗi năm, cung ứng khắp cả nước và xuất khẩu sang Campuchia, Lào. Giống gà được lai tạo giữa nguồn gen năng suất cao từ nước ngoài và giống bản địa, tạo ra sản phẩm phù hợp thị trường và an toàn dịch bệnh. Ngoài ra, mảng gà đẻ trứng có quy mô khoảng 1 triệu con, sản lượng hơn 700.000 quả/ngày.
Bên cạnh trứng thông thường, Dabaco còn đưa ra các sản phẩm giá trị gia tăng như trứng gà xanh, trứng Omega-3, trứng giàu selen. Chúng tôi khẳng định, trứng Dabaco trên thị trường - từ siêu thị đến chợ dân sinh - đều là hàng chuẩn, sạch và an toàn.
Bà Nguyễn Thị Kim Dung - Giám đốc Coopmart Hà Nội:
Saigon Co.op luôn coi công tác bảo đảm an toàn thực phẩm là nhiệm vụ trọng tâm, gắn với trách nhiệm của toàn hệ thống và các đối tác. Đơn vị triển khai chiến lược kiểm soát chất lượng hàng hóa theo ba bước khép kín. Trước hết, tại khâu nguồn cung, Saigon Co.op lựa chọn nhà cung cấp tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật, ưu tiên đơn vị có chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế như VietGAP, GlobalG.A.P, ISO hay OCOP.
Để chuẩn hóa tiêu chuẩn đầu vào, Saigon Co.op phối hợp cùng Viện Tiêu chuẩn Anh xây dựng quy chuẩn riêng phù hợp với thị trường Việt Nam, đồng thời tổ chức đánh giá trực tiếp tại nơi sản xuất và vận hành xe kiểm nghiệm lưu động - mô hình tiên phong tại Việt Nam.
Tại Trung tâm phân phối, Saigon Co.op thực hiện kiểm soát nghiêm ngặt đối với nhóm thực phẩm nguy cơ cao bằng hệ thống phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO 17025.
Cuối cùng, tại điểm bán, lực lượng quản lý chất lượng (QA) được bố trí ở hầu hết các siêu thị, siêu thị mini và cửa hàng nhằm giám sát chất lượng, đồng thời phối hợp với các trung tâm kiểm nghiệm độc lập để lấy mẫu ngẫu nhiên, kịp thời xử lý trường hợp không tuân thủ.
Song song với kiểm soát chất lượng, Saigon Co.op còn xây dựng chương trình đồng hành với đối tác. Doanh nghiệp phối hợp với nhiều tổ chức trong và ngoài nước tổ chức hàng loạt khóa đào tạo, hướng dẫn tuân thủ quy định pháp luật, chuyển đổi số trong chuỗi cung ứng, truy xuất nguồn gốc và thiết lập mã số vùng trồng.
Ngoài ra, Saigon Co.op luôn phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý để kịp thời cập nhật quy định, đồng thời đi đầu trong quy hoạch vùng nguyên liệu gắn với mã số vùng trồng, tạo hệ sinh thái bán lẻ bền vững, bảo đảm đầu ra cho nhà sản xuất và mang đến sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng.
Đặc biệt, thông qua chương trình “tick xanh trách nhiệm” cùng 11 nhà bán lẻ và hơn 60 nhà cung cấp, Saigon Co.op góp phần hình thành chuỗi cung ứng minh bạch - an toàn - trách nhiệm, lan tỏa giá trị phát triển bền vững trong toàn ngành.
Ông Lê Sĩ Hiển - Giám đốc vận hành miền Bắc - MM Mega Market Việt Nam:
Hiện nay, tỷ lệ hàng việt Nam ở MM Mega Market chiếm 90%. Mô hình chúng tôi kinh doanh chủ yếu cho các khách hàng chuyên biệt gồm các khách sạn 5 sao, trường học quốc tế... Tại MM Mega Market Việt Nam, chúng tôi thực hiện kiểm soát chất lượng và an toàn thực phẩm theo đúng tiêu chí “từ trang trại đến bàn ăn”. Tất cả nông sản, thủy sản và thực phẩm tươi sống đều được quản lý chặt chẽ trong một chuỗi cung ứng khép kín, từ khâu sản xuất đến khi đến tay người tiêu dùng.
Trước khi hợp tác, nhà cung cấp phải vượt qua quy trình thẩm định hồ sơ pháp lý, điều kiện sản xuất an toàn và tiêu chuẩn chất lượng. Hàng hóa được kiểm tra, giám sát thường xuyên tại kho và siêu thị, bao gồm kiểm tra cảm quan, điều kiện bảo quản và lấy mẫu định kỳ để kiểm nghiệm.
Chúng tôi không chỉ giám sát mà còn đồng hành với nhà cung cấp, hỗ trợ cải tiến quy trình và xây dựng văn hóa an toàn thực phẩm bền vững trong toàn hệ thống. Nếu phát hiện vi phạm về chất lượng hay đạo đức kinh doanh, chúng tôi sẽ thu hồi Tick xanh, ngừng hợp tác và báo cáo cơ quan chức năng.
Về minh bạch nguồn gốc, toàn bộ sản phẩm ở MM Mega Market đều có bao bì, nhãn mác đúng quy định, ghi rõ nhà cung cấp, ngày sản xuất, hạn sử dụng và điều kiện bảo quản. Nhiều sản phẩm được gắn QR code truy xuất nguồn gốc, giúp khách hàng kiểm tra thông tin từ trang trại đến siêu thị. Các chứng nhận VietGAP, GlobalGAP, HACCP… đều được in rõ trên bao bì để khẳng định chất lượng.
Ông Nguyễn Quý Dương - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật - Bộ NN&MT:
Câu chuyện về những ngôi làng nông nghiệp ở Nhật Bản cho thấy bài toán truy xuất nguồn gốc và liên kết sản xuất có thể mang lại giá trị lớn. Chỉ với diện tích nhỏ và một loại cây trồng duy nhất, nhờ hợp tác xã và hệ thống truy xuất nguồn gốc, sản phẩm của người Nhật đã vươn ra thế giới, thậm chí mang lại thu nhập cao hơn nhiều so với những hộ có diện tích lớn. Điều quan trọng không nằm ở quy mô, mà ở sự minh bạch, truy xuất hàng hóa và thương hiệu.
Với Việt Nam, sản xuất nhỏ lẻ là thực tế khó thay đổi trong ngắn hạn. Do đó, giải pháp cần thiết là khuyến khích nông dân tham gia vào các nhóm, hợp tác xã, để cùng xây dựng thương hiệu chung, gắn với mã số vùng trồng, bao bì và truy xuất rõ ràng. Sản phẩm có thể tiêu thụ ở chợ truyền thống, siêu thị hay kênh bán lẻ hiện đại, nhưng phải bảo đảm chất lượng và trách nhiệm của người sản xuất.
Để làm được, cần kết hợp đồng bộ nhiều yếu tố: chính sách giám sát và chế tài đủ mạnh, liên kết sản xuất - tiêu thụ, đồng thời đẩy mạnh truyền thông nhằm thay đổi nhận thức người tiêu dùng. Bài toán đặt ra là tại sao các quốc gia khác làm được còn chúng ta thì chưa. Câu trả lời nằm ở sự quyết tâm thay đổi và áp dụng truy xuất nguồn gốc, coi đây là nền tảng để nâng cao giá trị nông sản trong tương lai.
Bà Trần Thị Dung - Phó Chủ tịch kiêm Trưởng ban Kiểm tra Hội Bảo vệ người tiêu dùng:
Qua các báo cáo tại toạ đàm cho thấy, người tiêu dùng hiện nay không có quyền lựa chọn. Không cần phải chinh phục người tiêu dùng gì hết, họ vẫn phải lựa chọn. Thử hỏi ai là người lên tiếng khi người tiêu dùng ăn phải thực phẩm mất an toàn, bị nhiễm vi sinh, bị đau bụng... thì ai lên tiếng. Do đó, Hội Bảo vệ người tiêu dùng ra đời với mục đích bảo vệ người tiêu dùng.
Việc bảo vệ người tiêu dùng bằng nhiều cách: cho người ta kiến thức như thế nào là thực phẩm an toàn; thứ hai khi mua phải thực phẩm mất an toàn hay mua phải hàng giả, hàng nhái thì ai là người bảo vệ họ, khi họ chỉ đơn lẻ là cá nhân.
Liên quan câu chuyện người tiêu dùng được bảo vệ như thế nào, tôi thấy người tiêu dùng hiện đang hoang mang. Mình đang ở trên đất nước mình, tiêu dùng rau, củ, quả và những sản phẩm trên đất nước mình nhưng việc quản lý an toàn thực phẩm còn nhiều tồn tại, chưa có sự đột phá, “lực bất tòng tâm”. Nguyên nhân bắt đầu từ câu chuyện quản lý mỗi loại thực phẩm cần tới 3 bộ (Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường).
Về hệ thống luật pháp cần hoàn chỉnh, có tiêu chuẩn, quy chuẩn minh bạch và bao trùm; Về hệ thống kiểm tra giám sát, quản lý nhà nước đang theo hướng pháp trị và đức trị. Yêu cầu tối thiểu hàng hoá ra thị trường bắt buộc phải ghi nhãn mác…
Một số cơ quan nhà nước hiện nay chưa quyết tâm làm an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng nội địa. Khi chúng ta làm xuất khẩu hoa quả sang Trung Quốc và các nước thì yêu cầu phải có vùng trồng. Tại sao chúng ta không làm vùng trồng cho sản xuất trong nước. Hiện nay, có chính quyền địa phương cấp xã, phường chúng ta nên có quy định, đào tạo họ để làm tốt việc quản lý các hộ sản xuất ở địa phương, ở vùng nào?
Cơ quan quản lý cần tập trung vào xây dựng cơ chế, chính sách và quy định sau đó đi đào tạo cho hệ thống cấp xã, phường. Nếu ít tiền thì làm trước, làm “cuốn chiếu”.
Các chuyên gia đã thống nhất lựa chọn những khâu đột phá then chốt nhằm thúc đẩy nâng cao chất lượng an toàn thực phẩm trong nước.
Bà Lê Hằng - Phó Tổng thư ký VASEP - nhấn mạnh khâu chế biến như một yếu tố quyết định gia tăng giá trị và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn - Phó Cục Quản lý và Phát triển Thị trường trong nước, Bộ Công Thương - đề cao vai trò của kiểm tra, giám sát trong toàn chuỗi cung ứng.
Ông Nguyễn Quý Dương - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - coi trọng việc tập trung vào khâu phân phối và lưu thông, coi đây là bước quan trọng để sản phẩm đến tay người tiêu dùng an toàn.
Phó Tổng Biên tập Báo Tiền Phong Lê Minh Toản cảm ơn các đại biểu dự tọa đàm.
Chuyên gia Nguyễn Duy Thịnh và nhiều đại biểu khác, trong đó có đại diện Sở NN&MT Hà Nội, ông Phạm Như Anh - Giám đốc VISSAN chi nhánh Hà Nội, ông Nguyễn Văn Tuế - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dabaco Việt Nam, cùng ông Nguyễn Văn Mười - Phó Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam đều đồng thuận rằng sản xuất chính là khâu cần đột phá mạnh mẽ nhất.
Bà Trần Thị Dung - Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam - tiếp tục nhấn mạnh vai trò của chế biến trong việc bảo đảm chất lượng bữa ăn hằng ngày.
Bà Nguyễn Thị Kim Dung - Giám đốc Co.opmart Hà Nội lựa chọn khâu kiểm soát chất lượng như một yếu tố bảo chứng niềm tin người tiêu dùng.
Ông Lê Sĩ Hiển - Giám đốc vận hành miền Bắc, MM Mega Market Việt Nam - đặc biệt đề cao vai trò của tiêu dùng, khẳng định đây là mắt xích cuối cùng quyết định hiệu quả của cả chuỗi an toàn thực phẩm.
Ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn - Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển Thị trường trong nước, Bộ Công Thương:
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định kiện toàn Ban Chỉ đạo Trung ương về An toàn thực phẩm. Ban chỉ đạo do một phó thủ tướng làm trưởng ban, cùng ba phó trưởng ban là Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng NN&MT và Bộ trưởng Công Thương. Thành viên Ban chỉ đạo Trung ương về An toàn thực phẩm gồm khoảng 20 lãnh đạo cấp thứ trưởng các bộ, ngành liên quan. Chiều nay, ban chỉ đạo sẽ họp phiên đầu tiên, thảo luận nhiều nội dung quan trọng.
Trong công tác quản lý, Bộ Công Thương có nhiều đơn vị tham gia như Cục Quản lý chất lượng, Cục Công nghiệp, Ủy ban Cạnh tranh quốc gia… Riêng Cục Quản lý và Phát triển Thị trường trong nước được hình thành từ hai đơn vị trước đây, trong đó có lực lượng Quản lý thị trường với hơn 7.000 cán bộ tại các địa phương. Tuy nhiên, lực lượng này không thể bao quát và xử lý hết các vấn đề phát sinh, trong khi thực tế quản lý liên quan đến nhiều đầu mối như Bộ Y tế, Bộ NN&MT, thậm chí cả Bộ Công an khi có dấu hiệu vi phạm hình sự.
Vì vậy, việc phối hợp liên ngành, cũng như tiếp thu ý kiến từ các bộ, hiệp hội, doanh nghiệp và đặc biệt là báo chí, truyền thông là rất cần thiết. Chúng tôi đánh giá cao những góp ý, phản ánh từ báo Tiền Phong và dư luận xã hội, đây sẽ là cơ sở quan trọng để Ban Chỉ đạo Trung ương về An toàn thực phẩm tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền.
Ông Phạm Văn Duy - Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường:
Việt Nam đã đạt nhiều kết quả nổi bật trong xuất khẩu nông thủy sản khi sản phẩm thủy sản hiện diện tại hơn 170 quốc gia, còn nông sản đã có mặt ở gần 190 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thành công này là minh chứng cho nỗ lực từ người nông dân, doanh nghiệp chế biến đến hệ thống quản lý, đặc biệt là sự chú trọng ngay từ khâu sản xuất ban đầu.
Tuy vậy, thị trường quốc tế đặt ra tiêu chuẩn hết sức nghiêm ngặt, chỉ cần một lần vi phạm ATTP là doanh nghiệp có thể bị loại khỏi thị trường. Dù trên 99% cơ sở được đánh giá đảm bảo yêu cầu, cơ quan quản lý vẫn khẳng định cần kiên quyết xử lý triệt để những vi phạm còn tồn tại.
Từ ngày 1/7/2025, các nhiệm vụ quản lý nhà nước về ATTP trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ được chuyển giao cho địa phương, nhằm tăng tính chủ động. Bộ NN&MT vẫn đồng hành, phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương, Bộ Y tế và gần đây là Bộ Công an để kiểm soát, xử lý nghiêm các vi phạm, hướng tới nền nông nghiệp bền vững và an toàn.
Ông Phạm Như Anh - Giám đốc Công ty Cổ phần Việt Nam Kỹ nghệ Súc Sản (VISSAN) - chi nhánh Hà Nội:
VISSAN xác định vấn đề an toàn thực phẩm là vấn đề sống còn của doanh nghiệp.
Hiện doanh nghiệp đang áp dụng nhiều giải pháp để đảm bảo an toàn thực phẩm theo chuỗi, tập trung vào ba vấn đề chính.
Thứ nhất, kiểm soát nguyên liệu đầu vào. Là doanh nghiệp đứng đầu trong chế biến thịt heo, bò, chúng tôi kiểm soát rất chặt chẽ nguồn nguyên liệu. Sản phẩm sau khi giết mổ đều có cơ quan thú y đặt tại nhà máy kiểm dịch ngay tại chỗ.
Thứ hai, đầu tư công nghệ. VISSAN luôn cập nhật, áp dụng công nghệ hiện đại của châu Âu, đáp ứng tiêu chuẩn HACCP, kết hợp hệ thống ISO 9001:2000. Chúng tôi còn áp dụng công nghệ blockchain trong quản lý sản phẩm, toàn bộ sản phẩm đều có mã QR code để truy xuất nguồn gốc.
Thứ ba, áp dụng chuỗi cung ứng khép kín. VISSAN hợp tác với các trang trại chăn nuôi theo chuẩn VietGAP, định kỳ kiểm định chất lượng. Mỗi lô hàng đều được kiểm tra vi sinh, dư lượng kháng sinh. Người lao động ở các khâu sản xuất được đào tạo theo các tiêu chuẩn, đồng thời chúng tôi luôn điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh theo hành vi tiêu dùng của thị trường.”
Từ 8h30 sáng nay (23/9), Báo Tiền Phong tổ chức Tọa đàm "Nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm nông sản trong nước". Các đại biểu tham dự tọa đàm gồm: Ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn - Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước - Bộ Công Thương. Ông Phạm Văn Duy - Phó Cục trưởng Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường - Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Ông Nguyễn Quý Dương - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật - Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Lãnh đạo Cục An toàn thực phẩm - Bộ Y tế. Ông Bùi Bá Chính - Giám đốc Trung tâm Mã số mã vạch quốc gia - Bộ Khoa học và Công nghệ. Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Hà Nội.
Ông Nguyễn Văn Mười - Phó Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam. Bà Trần Thị Dung - Phó Chủ tịch kiêm Trưởng ban Kiểm tra Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam. Ông Nguyễn Văn Tuế - Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Dabaco Việt Nam. Ông Phạm Như Anh - Giám đốc Công ty Cổ phần Việt Nam Kỹ nghệ Súc Sản (VISSAN) - chi nhánh Hà Nội. Bà Nguyễn Thị Kim Dung - Giám đốc Coopmart Hà Nội. Ông Lê Sĩ Hiển - Giám đốc vận hành miền Bắc - MM Mega Market Việt Nam. PGS, TS Nguyễn Duy Thịnh - Chuyên gia Công nghệ sinh học và thực phẩm. Ông Đỗ Thành Lâm - Giám đốc Dự án An toàn thực phẩm vì sự phát triển SAFEGRO. Bà Lê Hằng - Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP).