Tại Viện Y học Nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai, các bác sĩ vừa tiếp nhận và điều trị thành công cho một bệnh nhân nữ 59 tuổi mắc viêm màng não do não mô cầu. Bệnh nhân làm nghề trông trẻ, không có bệnh nền và không đi du lịch trước thời điểm khởi phát. Chỉ trong hai ngày, bà xuất hiện ho, sốt, đau đầu tăng nhanh và nhập viện trong tình trạng cấp tính với biểu hiện đau đầu dữ dội, kích thích, cổ gáy cứng và sốt cao.
Kết quả xét nghiệm dịch não tủy cho thấy nhiều bất thường. Qua nhuộm soi, các bác sĩ phát hiện hình ảnh song cầu Gram âm hình hạt cà phê - dấu hiệu đặc trưng của vi khuẩn não mô cầu. Ngay sau đó, bệnh nhân được cách li và điều trị theo phác đồ đặc hiệu. Kết quả PCR và nuôi cấy dịch não tủy xác nhận dương tính. Những người tiếp xúc gần cũng đã được truy vết, theo dõi và báo cáo tới cơ quan chức năng để ngăn nguy cơ lây lan.
Sau bốn ngày điều trị tích cực, tình trạng bệnh nhân cải thiện rõ rệt, hết sốt, tỉnh táo và có thể tự sinh hoạt, song bác sĩ cho biết bệnh nhân vẫn cần được theo dõi chặt chẽ để phát hiện sớm các biến chứng.
Bệnh nguy hiểm diễn biến nhanh
Các chuyên gia cảnh báo viêm màng não do não mô cầu là một trong những bệnh nhiễm khuẩn nguy hiểm nhất. Bệnh diễn tiến rất nhanh, có thể đe dọa tính mạng chỉ sau 24 giờ. Tỉ lệ tử vong dao động từ 10-15% dù người bệnh được điều trị kịp thời. Khoảng 20% bệnh nhân sống sót phải mang di chứng suốt đời như tổn thương não, mất thính lực, hoại tử phải cắt cụt chi hoặc chậm phát triển trí tuệ. Vi khuẩn não mô cầu lây qua đường hô hấp khi người bệnh ho, hắt hơi hoặc nói chuyện và dễ lan rộng trong môi trường đông đúc như trường học, nhà trẻ, kí túc xá hay khu quân sự.
Bất kì ai cũng có thể mắc bệnh nhưng trẻ dưới 5 tuổi, thanh thiếu niên từ 15 đến 24 tuổi, học sinh - sinh viên sống trong tập thể, người suy giảm miễn dịch, người đi đến vùng lưu hành dịch và nhân viên y tế thường xuyên tiếp xúc với ca bệnh được xem là nhóm có nguy cơ cao hơn cả.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm ghi nhận hơn 1,2 triệu ca mắc và khoảng 135.000 ca tử vong trên toàn cầu. Tại Việt Nam, não mô cầu là 1 trong 10 bệnh truyền nhiễm có tỉ lệ tử vong cao nhất. Trong đó, thanh thiếu niên và người trưởng thành trẻ tuổi là nhóm có tỷ lệ mang vi khuẩn não mô cầu cao nhất, trở thành nguồn lây tiềm ẩn. Thống kê cho thấy có khoảng 5 - 30% người khỏe mạnh mang vi khuẩn trong vòm họng và tỉ lệ này có thể tăng vọt lên 70 - 80% trong các đợt dịch.
Kể từ đầu năm 2025, cả nước đã ghi nhận 84 ca bệnh viêm màng não do não mô cầu, số ca mắc tăng 70 ca (gấp 6 lần) so với cùng kì năm 2024. Trong đó, nhiều trường hợp ghi nhận là người trưởng thành, điển hình là nam quân nhân 23 tuổi tử vong do sốc nhiễm khuẩn não mô cầu tối cấp, và các ca bệnh rải rác là nam thanh niên 24 tuổi tại Hà Nội và bệnh nhân nam 38 tuổi tại TP.HCM, đều nhập viện với cùng triệu chứng đau đầu, sốt cao, xuất hiện tử ban tím.
Phòng bệnh bằng vắc xin
Hiện nay, vắc xin vẫn là biện pháp chủ động và hiệu quả nhất để phòng bệnh não mô cầu. Vi khuẩn này có nhiều nhóm huyết thanh, trong đó nhóm B, A, C, Y và W là tác nhân gây bệnh phổ biến tại Việt Nam và thế giới.
Bệnh viện Bạch Mai khuyến cáo người dân, đặc biệt là trẻ em và thanh thiếu niên, cần tiêm đủ vắc xin theo đúng phác đồ để tạo “lớp lá chắn” bảo vệ toàn diện trước các chủng vi khuẩn não mô cầu đang lưu hành.
Não mô cầu có 6 nhóm huyết thanh chính gồm A, B, C, Y, W-135 và X, là nguyên nhân gây ra hơn 90% số ca bệnh trên toàn cầu. Dịch tễ bệnh rất khó dự báo do sự thay đổi liên tục của các nhóm huyết thanh theo khu vực, thời gian, di cư dân cư, mật độ dân số và độ bao phủ vắc xin. Việc xác định chính xác nhóm huyết thanh cần đến kĩ thuật PCR hoặc nuôi cấy phức tạp, trong khi nhiều quốc gia đang phát triển còn hạn chế về xét nghiệm, gây khó khăn cho giám sát và kiểm soát dịch. Đáng lo ngại, không ít ca bệnh bị bỏ sót do triệu chứng ban đầu giống cúm hoặc viêm đường hô hấp thông thường.
Hiện nay, Việt Nam đã có đầy đủ các loại vắc xin phòng 5 nhóm huyết thanh nguy hiểm gồm A, B, C, Y, W-135, giúp bảo vệ cả cá nhân và cộng đồng. Việc tiêm đầy đủ các vắc xin là rất cần thiết để tạo miễn dịch rộng, bởi nếu chỉ tiêm một hoặc vài nhóm, cơ thể vẫn có nguy cơ mắc bệnh từ các nhóm còn lại.