Google News

Hi vọng mới cho hơn 200.000 bệnh nhân động kinh kháng thuốc

TPO - Tại Việt Nam, phần lớn bệnh nhân động kinh được điều trị bằng thuốc và theo dõi dài hạn. Tuy nhiên, khoảng 30% trường hợp kháng thuốc - tương đương hơn 200.000 người trong tổng số 710.000 bệnh nhân gần như không còn đáp ứng với phác đồ điều trị thông thường.

Sự phát triển của kỹ thuật ghi điện não xuyên nhu mô (SEEG) cùng các tiến bộ trong phẫu thuật thần kinh hiện đại đang mở ra cơ hội điều trị hiệu quả cho nhóm bệnh nhân vốn bế tắc suốt nhiều năm.

Thông tin được nêu tại Hội thảo quốc tế về phẫu thuật động kinh diễn ra ngày 10/12 tại Hà Nội, với sự tham dự của nhiều chuyên gia hàng đầu trong nước và quốc tế.

dong-kinh-2-17653535386801522570420.jpg
Các đại biểu tham dự hội thảo ngày 10/12.

PGS.TS Dương Đức Hùng, Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cho biết suốt nhiều thập niên, phần lớn bệnh nhân động kinh tại Việt Nam chỉ dựa vào thuốc để kiểm soát cơn. Nhưng với nhóm kháng thuốc, tình trạng co giật kéo dài đe dọa nghiêm trọng đến chức năng nhận thức, tâm thần và chất lượng sống. “Đây là lý do phẫu thuật động kinh và các kỹ thuật hiện đại như SEEG trở thành giải pháp then chốt cho hàng trăm nghìn bệnh nhân”, TS. Hùng nói.

Hội thảo lần này là diễn đàn để bác sĩ Việt Nam tiếp cận kỹ thuật mới, chia sẻ kinh nghiệm và mở rộng hợp tác với các trung tâm thần kinh hàng đầu thế giới.

SEEG: Bước ngoặt trong chẩn đoán và điều trị

Theo PGS.TS Đồng Văn Hệ, Phó Giám đốc Bệnh viện Việt Đức, Chủ tịch Hội Phẫu thuật Thần kinh Việt Nam, trong 10 năm qua, Trung tâm Phẫu thuật thần kinh của bệnh viện đã thực hiện hơn 150 ca phẫu thuật động kinh kháng thuốc, mang lại tỷ lệ kiểm soát cơn lên đến 80%.

TS. Hệ cho biết bước tiến quan trọng đang thay đổi cục diện điều trị động kinh kháng thuốc trên thế giới là kỹ thuật SEEG. Phương pháp này sử dụng các điện cực dạng sâu, được đưa qua sọ vào những cấu trúc não khó tiếp cận như hải mã, hạnh nhân, thùy đảo hay mặt trong bán cầu đại não. Nhờ đó, bác sĩ có thể ghi lại hoạt động điện não ba chiều, liên tục trong nhiều ngày để xác định chính xác mạng lưới khởi phát cơn.

Khi thuốc không kiểm soát được, phẫu thuật là một lựa chọn rất quan trọng để cải thiện chất lượng sống và giảm nguy cơ biến chứng lâu dài.

Tuy nhiên, một trong những điều kiện then chốt để phẫu thuật thành công là xác định chính xác vùng sinh cơn (epileptogenic zone - EZ): phần não chịu trách nhiệm khởi phát và lan truyền cơn động kinh.

Nếu cắt bỏ hoặc can thiệp vùng này mà không làm tổn hại quá nhiều chức năng bình thường, khả năng bệnh nhân không còn cơn động kinh hoặc giảm rất nhiều là rất cao.

Trong các trường hợp có nghi ngờ vùng sinh cơn phức tạp - ví dụ cơn bắt đầu ở vùng sâu, vùng hai bên, hoặc tổn thương hình ảnh cộng hưởng từ không rõ ràng - phương pháp xâm lấn ghi điện não sâu là cần thiết. Đó là khi phương pháp ghi điện não xuyên nhu mô (SEEG) trở nên rất giá trị.

dong-kinh.jpg
Bác sĩ phẫu thuật cho bệnh nhân động kinh.

Các bệnh viện phía Bắc hiện chưa triển khai SEEG. Hội thảo lần này được xem là bước chuẩn bị quan trọng cho đào tạo, chuẩn hóa quy trình và tiến tới ứng dụng rộng rãi tại Việt Nam.

Một trong những mối quan tâm lớn là "đặt điện cực sâu có an toàn không?" Theo thông tin tại hội thảo, các nghiên cứu hiện nay cho thấy tỷ lệ biến chứng của phương pháp này là thấp. Ví dụ, trong một phân tích hệ thống gồm 57 bài báo và hơn 2.500 bệnh nhân: tỷ lệ chảy máu là khoảng 1% và tỷ lệ nhiễm trùng là khoảng 0,8%. Tỷ lệ tổng biến chứng là khoảng 1,3%

Nếu được thực hiện tại trung tâm có kinh nghiệm và trang thiết bị chuẩn, SEEG được xem là kỹ thuật an toàn và hiệu quả. Dù vậy, chuyên gia cũng lưu ý mọi thủ thuật xâm lấn đều có rủi ro, đòi hỏi bệnh nhân được tư vấn kỹ trước khi lựa chọn phẫu thuật.

Trong thập niên qua, Bệnh viện Việt Đức đã sàng lọc hàng trăm nghìn lượt bệnh nhân động kinh, trong đó có nhiều ca phức tạp. Bệnh viện áp dụng các hệ thống chẩn đoán thăm dò tiên tiến như MRI 3.0 Tesla, PET/CT, điện não video và phác đồ quốc tế HARNESS.

“Xác định đúng vùng sinh cơn là yếu tố quyết định thành công phẫu thuật. SEEG giúp chúng ta làm điều này chính xác hơn, mở ra cơ hội cho những bệnh nhân nhiều năm không thể kiểm soát cơn co giật”, PGS.TS Đồng Văn Hệ nhấn mạnh.

Ông cũng cho biết xu hướng ứng dụng SEEG đang tăng nhanh tại Mỹ, châu Âu, Trung Quốc, Ấn Độ. Việt Nam sẽ sớm hòa vào dòng chảy đó khi nhân lực và trang thiết bị được chuẩn hóa.