Trứng cung cấp nguồn calo lớn
Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), có khoảng 72 nguồn calo được cung cấp trong một quả trứng. Lượng calo trong mỗi quả trứng phụ thuộc vào kích cỡ của nó. Một quả trứng có thể chứa lượng calo từ 54 calo lên đến 90 calo. Do đặc tính chứa nhiều calo, nên khi ăn trứng, chúng ta thường có cảm giác no lâu hơn và vì thế, nó được xem là thực phẩm giúp kiểm soát cân nặng.
Trứng chứa nhiều chất đạm
Protein rất cần thiết cho sự tăng trưởng và sức khỏe của cơ thể. Nó cũng cần thiết để tạo ra hormone, enzyme và kháng thể. Có 6,28g protein trong một quả trứng lớn và nó chứa 3,6 g được tìm thấy trong lòng trắng trứng.
Chế độ ăn uống được khuyến nghị cho protein là 0,8 g protein cho mỗi kg trọng lượng cơ thể. Ví dụ, một người nặng 140 pounds (63,5kg) cần khoảng 51g protein mỗi ngày. Ăn một quả trứng sẽ cung cấp gần 12% nhu cầu protein hàng ngày của người này.
Ngoài ra, một quả trứng có tất cả 9 axit amin thiết yếu và các khối protein. Những giá trị dinh dưỡng này rất quan trọng bởi vì cơ thể không thể tự sản xuất được. Lòng trắng trứng chứa khoảng một nửa protein và chỉ một phần nhỏ chất béo và cholesterol.
Chất béo
Khoảng một nửa lượng calo trong một quả trứng đến từ chất béo. Một quả trứng lớn có ít hơn 5g chất béo, được tập trung trong lòng đỏ trứng. Khoảng 1,6g là chất béo bão hòa.
Lòng đỏ trứng cũng chứa axit béo omega-3 lành mạnh. Axit béo omega-3 giúp giảm viêm trong cơ thể và có thể làm giảm nguy cơ mắc các bệnh mãn tính như bệnh tim, ung thư và viêm khớp. Omega-3 có tác dụng đến não và đã được chứng minh là rất quan trọng đối với nhận thức và trí nhớ.
Cholesterol
Bạn có thể đã nghe nói rằng lòng đỏ trứng có rất nhiều cholesterol. Một quả trứng lớn trung bình chứa 186 miligam (mg) cholesterol. Thường có một quan niệm sai lầm phổ biến rằng trứng không tốt cho sức khỏe vì hàm lượng cholesterol. Nhưng không phải tất cả cholesterol đều là xấu.
Cholesterol có vai trò hỗ trợ một số chức năng quan trọng trong cơ thể. Hầu hết mọi người có thể ăn một hoặc hai quả trứng mỗi ngày mà không gặp vấn đề gì với mức cholesterol. Nếu cholesterol của bạn cao hoặc bạn bị tiểu đường, bạn vẫn có thể ăn trứng với số lượng vừa phải (bốn đến sáu lần mỗi tuần) mà không có vấn đề gì. Tuy nhiên, hãy chắc chắn rằng bạn không thường xuyên ăn các thực phẩm khác có nhiều chất béo bão hòa, chất béo chuyển hóa hoặc cholesterol.
Trứng chứa nhiều vitamin và các khoáng chất
Vitamin
Trứng là một nguồn vitamin B tuyệt vời, đặc biệt là vitamin B-2 (riboflavin) và B-12 (cobalamin). Vitamin B-12 được cơ thể sử dụng để tạo DNA, vật liệu di truyền trong tất cả các tế bào của chúng ta. Nó cũng giữ cho cơ thể chúng ta thần kinh và các tế bào máu khỏe mạnh, bảo vệ chống lại bệnh tim và ngăn ngừa một loại thiếu máu gọi là thiếu máu megaloblastic. Chỉ có thực phẩm động vật chứa vitamin B-12 một cách tự nhiên. Nếu bạn là người ăn chay không ăn thịt, trứng là một cách tốt để đảm bảo bạn vẫn nhận được B-12.
Trứng cũng chứa một lượng vitamin A, D và E khá tốt, cũng như folate, biotin và choline. Hầu hết các vitamin trong một quả trứng được tìm thấy trong lòng đỏ. Choline là một vitamin quan trọng cho hoạt động bình thường của tất cả các tế bào trong cơ thể. Nó đảm bảo các chức năng của màng tế bào, đặc biệt là trong não. Nó cần thiết và cần được cung cấp với số lượng cao hơn trong khi mang thai và cho con bú. Một quả trứng lớn có khoảng 147 mg choline.
Khoáng chất
Trứng cung cấp một nguồn selen, canxi, iốt và phốt pho. Chất chống oxy hóa selen giúp bảo vệ cơ thể chống lại các tổn thương gốc tự do có liên quan đến lão hóa, bệnh tim và thậm chí một số loại ung thư.
Trứng chứa nhiều dinh dưỡng
Trứng có nhiều chất dinh dưỡng, bao gồm vitamin, khoáng chất, axit amin so với hầu hết các loại thực phẩm khác. Một quả trứng có thành phần dinh dưỡng bao gồm: Protein chất lượng cao; selen; photpho; choline; vitamin B12; nhiều chất chống oxy hóa, giúp giữ các tế bào khỏe mạnh.
Trứng tốt cho tim
Nhìn chung, những người ăn trứng nhiều hơn thì khả năng mắc bệnh tim giảm. Ngay cả những người mắc bệnh tiểu đường hoặc tiểu đường loại 2 cũng có trái tim khỏe mạnh sau chế độ ăn nhiều trứng. Trong một nghiên cứu gần đây, những người ăn khoảng một quả trứng mỗi ngày có nguy cơ mắc bệnh tim thấp hơn 20% so với những người không ăn trứng. Ăn trứng, đặc biệt là những loại thực phẩm được làm giàu với một số axit béo nhất định (như omega-3), dường như làm giảm mức độ triglyceride.
Các chất chống oxy hóa lutein và zeaxanthin giúp tránh các bệnh về mắt như đục thủy tinh thể và thoái hóa điểm vàng liên quan đến tuổi tác. Các loại rau lá xanh như rau bina và cải xoăn cũng có chúng. Nhưng trứng là một nguồn tốt hơn.
Những người không nên ăn trứng
Những người bị tiêu chảy
Đối với bệnh nhân tiêu chảy, do dịch tiêu hóa tiết ra ít hơn, hoạt tính men tiêu hóa bị giảm.
Việc chuyển hóa chất mỡ, chất đạm và đường bị rối loạn. Cơ năng sinh lý nhu động ruột vượt quá mức bình thường. Chức năng đồng hóa vốn có bị ảnh hưởng, chức năng tái hấp thu nước và chất dinh dưỡng ở ruột non gặp trở ngại.
Phần lớn các chất dinh dưỡng bị thải ra ngoài qua đường tiêu hóa. Vào lúc này, nếu không để cho đường ruột được nghỉ ngơi thích đáng thì không những làm mất đi tác dụng bồi dưỡng cơ thể, mà ngược lại còn làm cho bệnh nặng thêm.
Vì thế, trong thời gian bị tiêu chảy, bệnh nhân không được ăn trứng gà, vịt.
Bệnh nhân bị viêm gan và gan nhiễm mỡ
Trứng vịt và lòng đỏ trứng gà là thực phẩm có chứa hàm lượng mỡ và cholesterol cao.
Theo phân tích, trong 100g trứng vịt có chứa 14,7g mỡ, còn chất protein chỉ có 13g, lượng cholesterol là 634mg, hàm lượng cholesterol trong lòng đỏ trứng cao tới 1522mg.
Chúng đều tiến hành trao đổi chất trong gan, kết quả càng tăng thêm gánh nặng cho gan, không có lợi cho việc khôi phục chức năng của gan, vì vậy người viêm gan và gan nhiễm mỡ không nên ăn.
Bệnh tiểu đường
Trứng là loại thực phẩm chứa nhiều chất béo omega-3, là nguồn cung cấp vitamin, protein và nhiều dưỡng chất khác có lợi sức khỏe nhưng chúng cũng chứa rất nhiều cholesterol và chất béo bão hòa. Đây là những “thủ phạm” có thể gây ra bệnh tiểu đường tuýp 2. Theo các chuyên gia dinh dưỡng những người có bệnh tiểu đường không nên hạn chế ăn.
Người đang sốt
Đối với, những người bị sốt (nhất là trẻ em), ăn trứng gà sẽ làm cho nhiệt lượng cơ thể tăng lên, không tán phát ra ngoài được, giống như “lửa đổ thêm dầu”, bệnh sốt càng thêm trầm trọng. Vì vậy, khi bị sốt không nên ăn trứng gà, nên uống nhiều nước và pha thêm chút muối, ăn nhiều rau quả tươi, hạn chế ăn những thứ có nhiều protein.
Người mắc bệnh sỏi mật
Trứng gà là thức ăn có hàm lượng đạm rất cao, trong khi đó, do sự kích thích của viên sỏi lâu ngày trong túi mật, chức năng co bóp của túi mật của người bệnh sẽ yếu dần, nếu người bệnh dùng thức ăn có hàm lượng đạm như trứng gà, đường ruột sẽ tiết nhiều chất làm co bóp túi mật, khiến túi mật vốn đã bị bệnh phải làm việc quá tải, từ đó sinh ra các triệu chứng lâm sàng như: gây đau đớn, nôn mửa.
Người cơ địa dị ứng
Trứng là nguyên nhân hay gặp thứ hai gây dị ứng thức ăn ở trẻ nhỏ, khoảng 1,5% các bé dị ứng với trứng gà. Tuy nhiên đến khoảng 80% trẻ thoát khỏi dị ứng trứng khi lên 6 tuổi.
Phần lớn các protein gây dị ứng nằm trong lòng trắng, trong khi protein lòng đỏ ít gây dị ứng hơn. Do sự tương đồng giữa protein trứng gà và các loại trứng khác, người dị ứng trứng gà thường dị ứng với trứng vịt, trứng ngan… Vì vậy, nếu cơ địa dị ứng với trứng, bạn nên tránh món này để không ảnh hưởng đến các cơ quan khác trong cơ thể.
Lưu ý khi ăn trứng
Chỉ ăn trứng đã nấu chín kỹ: Trứng gà, trứng vịt hay trứng cút đi chăng nữa thì khi chưa nấu chín kỹ (như trứng chần, trứng tráng sơ qua…) sẽ có hàm lượng dinh dưỡng thấp và khiến cơ thể khó tiêu hóa. Hơn nữa, trứng chưa chín kỹ sẽ khiến cơ thể dễ mắc những loại vi khuẩn gây hại tồn tại sẵn trong trứng như vi khuẩn salmonella.
Không uống sữa đậu nành khi ăn trứng: Buổi sáng, mọi người thường có thói quen ăn trứng kết hợp với uống sữa đậu nành mà không biết rằng, protein trong trứng sẽ kết hợp với trypsin trong sữa đậu nành, gây cản trở quá trình phân hủy và hấp thụ protein trong cơ thể.
Không nên cho bột ngọt (mì chính) vào trứng: Nhiều bà nội trợ có thói quen cho bột ngọt vào khi đánh trứng để chuẩn bị làm món trứng chiên. Về mặt dinh dưỡng, đây là một sai lầm vì ở nhiệt độ cao, các chất natri, acid glutamic, chất clo hóa… trong trứng kết hợp và tạo thành muối natri của acid glutamic.