Các sự kiện riêng biệt nhưng tương tự, theo Forbes, rõ ràng không phải là ngẫu nhiên. Nga đã dành nhiều thập kỷ để chuẩn bị cho tàu ngầm của mình kiểm soát các khu vực quan trọng của Bắc Đại Tây Dương. Mỹ đã dành nhiều thập kỷ để chuẩn bị ngăn cản kế hoạch đó. Seawolf là một phần quan trọng trong nỗ lực của người Mỹ.
Năm ngoái, 8 tàu của Nga, trong đó có 6 tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân, đã đi ngang qua biển Na Uy và biển Barents, nơi họ thực hành bảo vệ vùng biển mà các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Nga – phương Tây gọi là "boomer". Theo mô tả của Forbes, số lượng tên lửa đạn đạo liên lục địa của chúng khi được sử dụng sẽ là sự khởi đầu cho việc kết thúc của một nền văn minh nào đó.
Con tàu Mỹ, ra khơi một năm sau đó, được thiết kế đặc biệt để xuyên thủng hệ thống phòng thủ của Nga trong cùng vùng biển này.
Sự tăng vọt các lực lượng của Moscow trong một thời điểm không phải là chưa từng có. Nhưng chúng ta phải quay trở lại năm 1987 để chứng kiến một nỗ lực tương tự. Năm đó, hải quân Liên Xô đã phải 5 tàu ngầm tấn công lớp Victor còn mới đi qua Bắc Đại Tây Dương.
Việc triển khai Chiến dịch Atrina này đòi hỏi nhiều năm đào tạo, huấn luyện.
Sau khi đi ngang qua của các khu vực có vũ khí hạt nhân của đối phương, các tàu lớp Victor đã tiến xa hơn về phía tây. Xa về phía tây, họ đã gây ra một sự hoảng loạn nhỏ trong Hải quân Mỹ. Lực lượng này đã xuất kích một chiến hạm thực sự để truy lùng các con tàu của Liên Xô.
Một việc tương tự đã xảy ra nhiều thập kỷ sau đó.
Sự kiện 8 tàu ngầm chiến lược Nga cùng xuất kích tháng 10 năm 2019 được gọi là Chiến dịch Grom, một cuộc diễn tập kéo dài 60 ngày cho chiến tranh hạt nhân. Là một phần của cuộc tập trận, tàu ngầm tên lửa lớp Delta IV Karelia đã phóng một tên lửa đạn đạo không vũ trang đầu đạn từ Biển Barents vào ngày 17 tháng 10.
Hoạt động này cũng liên quan đến việc phóng các tên lửa từ trên không và trên bộ.
Tám tàu tấn công tham gia Chiến dịch Grom dường như đã thực hành bảo vệ tàu Karelia. Trong thời chiến, bảo vệ các pháo đài trong các căn cứ sẽ là nhiệm vụ chính của lực lượng tàu ngầm tấn công mạnh với gần 50 chiếc của Nga. Nhưng các tàu tấn công này cũng có khả năng tấn công của riêng chúng.
Các tàu tấn công mang tên lửa hành trình phi hạt nhân Kalibr “có thể hoạt động mà vẫn an toàn tương đối trước các căn cứ ở biển Na Uy và biển Barents và tấn công các mục tiêu trên khắp Bắc và Trung Âu,” Andrew Metrick, một nhà phân tích của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tại Washington, DC, giải thích trên Proceedings, tạp chí chuyên môn của Viện Hải quân Mỹ.
Và nếu Moscow muốn đe dọa lục địa Mỹ bằng vũ khí thông thường, các tàu tấn công có thể đi xa hơn về phía tây. Phó đô đốc Hải quân Mỹ Andrew Lewis, chỉ huy Hạm đội 2, cho biết tại một sự kiện công nghiệp vào tháng Hai, Bờ Đông nước Mỹ không còn là “nơi trú ẩn an toàn” cho các tàu chiến Mỹ.
Lewis cho biết: “Chúng tôi đã chứng kiến số lượng tàu ngầm Nga được triển khai ở Đại Tây Dương ngày càng gia tăng và những tàu ngầm này có khả năng hoạt động tốt hơn bao giờ hết, triển khai trong thời gian dài hơn với nhiều hệ thống vũ khí sát thương hơn”.
Các đô đốc Mỹ đã lên tiếng cảnh báo điều tương tự vào giữa những năm 1980, không lâu trước khi 5 tàu ngầm Victor đi xa đến Bermuda.
Năm 1984, Hải quân Mỹ đã tiến hành phân tích kỹ lưỡng các khả năng của tàu ngầm Liên Xô. Báo cáo kết quả, trong đó nêu bật các lớp tàu ngầm tấn công mới bao gồm Victor, là một "bước ngoặt" đối với người Mỹ, Phó đô đốc James Hogg, khi đó là giám đốc tác chiến hải quân, nói với Quốc hội Mỹ vào năm 1986.
Săn tàu ngầm Nga trở thành '' ưu tiên chiến đấu số một của Hải quân Mỹ ", Hogg nói," vì những hậu quả nghiêm trọng về an ninh quốc gia nếu chúng ta đánh mất lợi thế chiến đấu trước Liên Xô. "
Ba mươi sáu năm sau, USS Seawolf, một trong ba tàu ngầm trong lớp tàu cùng tên, là một phần trong phản ứng cuối cùng của Hải quân Mỹ — cùng với các đồng minh NATO — đối với Chiến dịch Grom và sự gia tăng dưới biển năm 2019 của Nga. Seawolf, được đưa vào hoạt động năm 1997, nhanh hơn, êm hơn và được trang bị vũ khí mạnh.