Bộ Giáo dục nói gì về đề xuất điểm sàn xét tuyển đại học?

TPO - Hiện một số đại học công bố điểm chuẩn bằng phương thức xét học bạ THPT ở mức chỉ 15-17 điểm/tổ hợp. Điều này đặt ra nhiều nghi ngại về chất lượng đào tạo một số ngành khi điểm chuẩn đầu vào thấp. 

Ghi nhận cho thấy bên cạnh nhiều ngành học có điểm chuẩn phương thức xét kết quả học tập THPT (học bạ) ở mức tuyệt đối (như ngành Luật Kinh tế Đại học (ĐH) Luật Hà Nội), hay ở mức 27-28 điểm/tổ hợp thì một số ngành điểm chuẩn chỉ dao động quanh mức 15-17 điểm.

Bộ Giáo dục nói gì về đề xuất điểm sàn xét tuyển đại học? ảnh 1

ĐH Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương công bố điểm chuẩn xét tuyển học bạ THPT năm 2024 từ 15-22 điểm, ngoại trừ khối ngành sức khỏe.

Điểm xét tuyển này đã bao gồm điểm ưu tiên khu vực và đối tượng nếu có. Với thí sinh có điểm ưu tiên, điểm học bạ thấp hơn 5 điểm/môn cũng có thể trúng tuyển ĐH.

ĐH Kiên Giang ngoài hai ngành sư phạm, toàn bộ ngành còn lại của trường đều có điểm xét tuyển học bạ từ 15-16 điểm. Trong đó 7 ngành có điểm xét tuyển 15 và 15 ngành có điểm xét tuyển 16.

ĐH Hòa Bình lấy điểm chuẩn xét học bạ từ 15-17 cho các ngành, trừ khối ngành sức khỏe.

ĐH Gia Định công bố điểm chuẩn phương thức xét học bạ, toàn bộ các ngành đều có điểm chuẩn 16,5.

Không chỉ năm nay, những năm trước, nhiều ngành học cũng chỉ lấy điểm chuẩn ở ngưỡng 15-17 điểm theo phương thức xét học bạ. Điều này dẫn đến việc vừa qua, một số đại biểu quốc hội đề xuất cần có mức điểm sàn nhất định nhất là với các trường tư, để không tuyển những thí sinh quá kém vào đại học, đảm bảo chất lượng đào tạo nhân lực.

Trao đổi với phóng viên về vấn đề này, PGS.TS Nguyễn Thu Thủy - Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) - cho rằng đối với đề xuất về việc phải có điểm sàn chung cho xét tuyển ĐH, cần phải có đủ các căn cứ pháp lý và căn cứ thực tiễn để triển khai.

Về căn cứ pháp lý, theo quy định của Luật Giáo dục ĐH, Bộ GD&ĐT xác định và công bố điểm sàn tuyển sinh cho các ngành đào tạo giáo viên và các ngành đào tạo sức khỏe có chứng chỉ hành nghề. Bộ GD&ĐT đã triển khai thực hiện nội dung này trong các năm qua theo đúng yêu cầu của luật định.

Về căn cứ thực tiễn, hệ thống các cơ sở giáo dục ĐH của Việt Nam hiện nay đóng trên các địa bàn khác nhau trên toàn quốc, đào tạo các ngành phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng miền, khu vực, với đối tượng tuyển sinh khác nhau (từ các thí sinh đang sinh sống, học tập ở các vùng kinh tế phát triển, cho đến các thí sinh tại các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, miền núi hải đảo).

Về phía các cơ sở đào tạo, các trường được thành lập trong những thời kỳ khác nhau, lịch sử dài ngắn khác nhau, thương hiệu, uy tín các trường cũng có sự khác biệt, phân cách.

Do vậy, điểm trúng tuyển đầu vào các ngành/trường khác nhau nhiều, nhưng nhìn chung không dưới 15 điểm (nhóm ngành khó tuyển như các ngành nông lâm, ngư nghiệp…) và có ngành/trường trên 27 điểm (khối ngành sức khoẻ, pháp luật, kinh tế - quản lý, quốc phòng an ninh…).

Bên cạnh đó, trong nhiều năm qua, số lượng thí sinh tham gia xét tuyển và thực tế nhập học chỉ đạt khoảng 80% năng lực đào tạo của các cơ sở giáo dục ĐH trong toàn hệ thống. Các đại học đã và đang phải cạnh tranh bằng chất lượng, bằng cơ hội việc làm của sinh viên tốt nghiệp. Nếu sinh viên tốt nghiệp không có việc làm tốt, không có cơ hội phát triển… thì các lứa thí sinh tiếp theo sẽ không lựa chọn ngôi trường đó để học tập.

Chất lượng đào tạo phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó điểm thi đầu vào chỉ là một trong nhiều yếu tố.

Để kiểm soát chất lượng đào tạo trong giáo dục ĐH trong thời gian qua, Bộ GD&ĐT đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ, tăng cường triển khai tự chủ đại học đi kèm với trách nhiệm giải trình (trong đó có công tác tuyển sinh), tăng cường rà soát và yêu cầu nâng cao đối với các điều kiện đảm bảo chất lượng của các trường, các ngành đào tạo và đề xuất chính sách ưu tiên đầu tư vào các trường đào tạo các nhóm ngành trọng điểm...

Xem xét các phân tích nêu trên thì việc quy định mức sàn chung để xét tuyển đại học cho toàn hệ thống là chưa có căn cứ chắc chắc, chưa đảm bảo tính khả thi để phát huy tác dụng trong thực tiễn.

Theo bà Thủy cần phải nhấn mạnh thêm rằng trên thực tế, tỷ lệ học ĐH ở Việt Nam còn thấp so với khu vực và thế giới, cũng như so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ...

"Chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải mở rộng quy mô đào tạo theo Quy hoạch tổng thể quốc gia và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Và về nguyên tắc, phần lớn những người tốt nghiệp THPT đều có khả năng học lên sau trung học (ĐH hoặc cao đẳng). Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc tới năm 2030 cũng đã khẳng định "cơ hội tiếp cận giáo dục đại học và kỹ thuật có chất lượng cho mọi người", bà Thủy nói.

Tin liên quan