Nỗi buồn chiến tranh: Xứng đáng được vinh danh

Nhận định về Bảo Ninh, nhà văn Phạm Ngọc Tiến viết: Ông “có lẽ là nhà văn Việt Nam có dấu ấn nhất trong việc mang văn học Việt ra ngoài biên giới một cách hệ thống và được thế giới đón chào trọng thị trong suốt một quãng thời gian dài hai mấy năm bằng cuốn tiểu thuyết duy nhất Nỗi buồn chiến tranh”.

Khi Nỗi buồn chiến tranh được gọi tên trong 50 tác phẩm văn học, nghệ thuật biểu diễn tiêu biểu sau ngày thống nhất, mạng xã hội lại bùng nổ tranh luận. Nhà văn Dương Hướng, Chủ tịch Hội đồng Văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam cảm thán: “Y như hồi tiểu thuyết của Bảo Ninh ẵm giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam cách đây hơn 30 năm. Thật đáng buồn”.

Một tác phẩm cực hiếm của một nhà văn châu Á

Nhà văn Bảo Ninh (bìa trái) cùng các tác giả trong lễ vinh danh hôm 30/11.

Đánh giá của nhà văn Phạm Ngọc Tiến không hề cảm tính (do mối quan hệ thân thiết ngoài đời) mà hoàn toàn trên cơ sở thực tế. Nỗi buồn chiến tranh nhận được đánh giá rất cao từ những tên tuổi nổi tiếng ở nước ngoài. Không thể không nhắc tới bài viết ca ngợi Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn nổi tiếng Trung Quốc Diêm Liên Khoa, được tiến sĩ văn học Bùi Thiên Thai dịch sang tiếng Việt, từng gây chấn động làng văn Việt.

“Tôi với tư cách một tiểu thuyết gia đã có đến 26 năm trong quân đội, đọc xong tiểu thuyết này, cảm giác mãnh liệt nhất, đó chính là giả sử ngay từ cuối những năm 80 hoặc muộn hơn một chút vào đầu những năm 90, chúng ta có thể dịch Nỗi buồn chiến tranh sang tiếng Trung giống như Vòng hoa dưới núi của nhà văn Trung Quốc Lý Tôn Bảo vừa xuất bản hồi đầu những năm 80 đã gần như đồng thời được dịch sang tiếng Việt, thì nhận thức của chúng ta đối với văn học Việt Nam sẽ không đến nỗi phong bế và hạn hẹp như hôm nay; văn học quân đội Trung Quốc cực kỳ cũ kỹ và trì trệ hôm nay cũng nhất định sẽ không bảo thủ, bó chân và tụt hậu như vậy”, nhà văn Diêm Liên Khoa viết. Tác giả Kiên ngạnh như thủy viết tiếp: “Nghiền ngẫm Nỗi buồn chiến tranh với tư cách là một tiểu thuyết chiến tranh phương Đông trong bối cảnh văn học thế giới và so sánh nó với dòng văn học chiến tranh mà chúng ta có thể đọc được của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, rõ ràng Nỗi buồn chiến tranh đánh dấu tầm cao mới của một thứ văn học mới. Một tác phẩm cực hiếm của một nhà văn châu Á phương Đông, hiếm có trong những miêu tả, nhận thức, phê phán thẩm mĩ đối với chiến tranh, hiếm có trong những lý giải và tình yêu đối với con người, những suy tư về nhân tính, hiếm có cả trong biểu đạt nghệ thuật - một phương diện cá tính nhất, quan trọng nhất đối với một nhà văn”.

Giáo sư văn chương, kiêm dịch giả Đức Gunter Giesenfeld, người từng dịch tác phẩm của Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Thiệp, Thùy Trâm sang tiếng Đức (qua bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp) cũng đã dịch Nỗi buồn chiến tranh sang tiếng Đức, cuốn Die Leiden des Krieges. Die Leiden des Krieges sau đợt phát hành ở Đức tháng 6/2014 đã đứng đầu bảng xếp hạng 7 cuốn sách hư cấu xuất sắc quý I/2015 của Litprom, Hiệp hội văn hóa châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh tại Đức. Gunter Giesenfeld so sánh Nỗi buồn chiến tranh với Phía tây không có gì lạ và đánh giá, Nỗi buồn chiến tranh thậm chí còn hay hơn Phía tây không có gì lạ.

Ông kết luận: “Tiểu thuyết của Bảo Ninh thuộc hàng kinh điển thế giới ở dòng văn chiến tranh”. Nhiều độc giả Việt đã tán đồng với nhận định của dịch giả Gunter Giesenfeld. Một độc giả nhìn nhận: “Nỗi buồn chiến tranh rất đáng đọc, đọc để khóc và hiểu một cái nhìn khác về cuộc chiến”. Một người lính đi qua khói bom chia sẻ: “Tôi là một cựu chiến binh, đang sống ở Tây Nguyên. Đọc Nỗi buồn chiến tranh như đọc lại cuộc đời mình”.

Tranh luận cũng cần văn hóa

Ồn ào quanh tác phẩm được vinh danh còn cho thấy nỗi buồn trong thời mạng xã hội phát triển.

Rất nhiều chỉ trích, kết tội, thậm chí lăng mạ thiếu văn hóa với cha đẻ Nỗi buồn chiến tranh nhan nhản trên mạng xã hội, đặc biệt những bình luận có tính sát thương quanh bức ảnh nhà văn Bảo Ninh lên nhận vinh danh.

Bảo Ninh không lên tiếng như bao lần “giông bão” tấn công ông. Nhưng bạn văn của ông, nhà văn Phạm Ngọc Tiến, chỉ nói một lời: “Hãy sống và viết được như Bảo Ninh”.

Tác giả Bến không chồng phản ứng gắt trước những bình luận “bẩn” hướng về Bảo Ninh. “Một số bình luận chửi đồng và chửi cùn rất vô văn hóa. Không cấm tự do tranh luận nhưng tranh luận phải có lý, có tình, có văn hóa”, Dương Hướng nói. Ông cũng chỉ ra tình trạng có những người chưa từng đọc Nỗi buồn chiến tranh vẫn “ném đá” phong trào. Ngay cả một số nhà văn trẻ cũng thú nhận, họ đã nghe danh Bảo Ninh và biết đến Nỗi buồn chiến tranh nhưng chưa từng đọc bao giờ.

Nỗi buồn chiến tranh không thuộc dòng sách “bán chạy” ở ta. Có độc giả chia sẻ từng đọc Nỗi buồn chiến tranh nhưng không dám đọc lại lần hai vì ám ảnh. Lại có người nói, chỉ đọc đến giữa chừng đành bỏ cuộc vì không khí bức bối, khó chịu. Sách là “món ăn tinh thần” có thể hợp với người này, không hợp với người kia. Những tác phẩm nặng kí như sách giành Nobel đọc không vào cũng là chuyện bình thường, chỉ không bình thường khi ai đó sẵn sàng “ném đá” nhiệt tình mà chưa hề dành thời gian khám phá tác phẩm.

N.H.D

Ðúng với thời đại, đúng với xu thế

Nhà văn Bảo Ninh (phải) và nhà văn Dương Hướng

Nỗi buồn chiến tranh ra đời năm 1987, xuất bản lần đầu ở Việt Nam năm 1990, được Hội Nhà văn Việt Nam vinh danh năm 1991, cùng với Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường. Cả ba tác phẩm này cùng vinh dự có tên trong 50 tác phẩm văn học, nghệ thuật biểu diễn tiêu biểu sau ngày thống nhất, vừa được vinh danh hôm 30/11.

Nhà văn Dương Hướng tràn ngập niềm vui trong buổi lễ vinh danh nhưng ông ngậm ngùi khi hai bạn văn thân thiết là Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Huy Thiệp đều có tác phẩm được vinh danh lần này đã về bên kia thế giới. Tác giả Bến không chồng xúc động với cái ôm của Bảo Ninh trong buổi lễ. Ông viết trên trang cá nhân: “Nhà văn Bảo Ninh với mái đầu trắng phơ ôm lấy tôi chụp bức ảnh lưu niệm mà thấy xốn xang trong lòng của Nỗi buồn chiến tranh”.

Hơn 30 năm trôi qua, Nỗi buồn chiến tranh đi qua bao thác ghềnh, nếm trải đủ ngọt và đắng từ dư luận. Nhà văn Dương Hướng bức xúc thay cho đồng nghiệp. Ông chia sẻ với Tiền Phong: “Không phải bây giờ mà ngay từ hồi trao giải đã vậy. Đây là sự lặp lại y nguyên tình trạng của ngày mới trao, hơn 30 năm trước. Đến bây giờ vẫn còn rất nhiều ý kiến xung quanh Nỗi buồn chiến tranh khiến tôi thấy như một trò cười xót xa: Vì sao đến hôm nay chúng ta vẫn nghĩ như mấy chục năm về trước? Với tôi, Nỗi buồn chiến tranh đứng trên tất cả các tác phẩm văn học được vinh danh vừa rồi. Tác phẩm đã đi khắp thế giới và được công nhận mà sao ở nơi nó sinh ra người ta vẫn giữ đánh giá ấu trĩ ấy? Đó là nỗi buồn của thời đại”.

Chủ tịch Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam gợi ý, nên đọc văn bản tiểu thuyết nói riêng, văn bản văn học nói chung theo cách khác. Tác phẩm được vinh danh không phải khẩu hiệu. Một tác phẩm văn học giá trị mang nhiều yếu tố: thân phận con người, nỗi đau của chiến tranh… “Nỗi buồn chiến tranh mang tư tưởng nhân loại. Đất nước ta đang triển khai mạnh mẽ chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc, trong đường lối ngoại giao Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới. Vì vậy, đánh giá tác phẩm văn học xin hãy nhìn thoáng ra, đừng để những hận thù làm u ám cuộc sống này, làm đau nhà văn và tác phẩm”, ông nói. Nhà văn Dương Hướng khẳng định: “Vinh danh Nỗi buồn chiến tranh là bước tiến, là sự sáng suốt, đúng với thời đại, đúng với xu thế bây giờ”.

Một nhà thơ xin giấu tên nhìn nhận quanh ồn ào Nỗi buồn chiến tranh ở khía cạnh tích cực: “Theo tôi và đa số độc giả tiểu thuyết của Bảo Ninh là tác phẩm hay về văn chương và tính nhân văn. Song giá trị của nó còn lớn hơn thế ở một điểm khác. Đó là góc nhìn cuộc chiến. Thế giới từ lâu đã có cách nhìn như vậy, nên Nỗi buồn chiến tranh không phải mới. Cho đến thời điểm hiện nay, tư tưởng Nỗi buồn chiến tranh cũng không còn xa lạ với người Việt. Việc nhìn nhận và tôn vinh tiểu thuyết vừa rồi không chỉ là một sự ghi nhận một tác phẩm văn học, mà còn là chấp nhận một cách nhìn. Nhưng có người chấp nhận thì cũng sẽ có người không chấp nhận. Theo tôi, cuộc tranh luận này chứng tỏ chúng ta đã vượt qua được tình trạng cảm tính thông thường trong đánh giá văn học lâu nay”. Nhà văn Dương Hướng cũng cho rằng, tác phẩm càng có tranh luận cao thì càng tạo sự lan toả rộng. Ngược dòng thời gian, nhà phê bình văn học Ngô Thảo nhớ lại: “Khi Nỗi buồn chiến tranh được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, Tổng biên tập của tờ The Washington Post sang Việt Nam, có gặp tôi và phỏng vấn. Tôi đã nói rằng: Nỗi buồn chiến tranh được công nhận chứng tỏ nền văn học của chúng tôi đã dân chủ hơn, cởi mở hơn, chấp nhận tiếng nói của mọi người đi qua cuộc chiến”.

Dịch giả Lê Quang chia sẻ, ngay từ khi đọc tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh lần đầu, ông đã tin chắc đây là tiểu thuyết “ăn đứt” Erich Maria Remarque (cha đẻ Phía tây không có gì lạ - PV). Mấy chục năm sau ông vẫn nghĩ thế. “Chưa ai viết về chiến tranh Việt Nam ngấp nghé đến chân Nỗi buồn chiến tranh”, Lê Quang đánh giá. Dịch giả văn học Đức hàng đầu hiện nay tiết lộ: “Tôi đã từng hẹn với giám đốc Viện Goethe (ông ấy biết tiếng Việt) cùng dịch Nỗi buồn chiến tranh từ năm 2004, lúc đó Bảo Ninh đã bán bản quyền 7 năm cho một nhà xuất bản ở Đức nhưng nhà xuất bản đó không dịch nhưng cũng không “nhả” ra trước khi hết hạn. Thế là đành lỗi hẹn với tiểu thuyết của Bảo Ninh”.

Nhà văn Bảo Ninh không “chơi” mạng xã hội. Nhiều năm nay, ông sống lặng lẽ, đúng như nhà văn Phạm Ngọc Tiến viết: “Bây giờ hiếm khi ai có thể gặp được Bảo Ninh. Ngay cả giao tiếp điện thoại cũng khó khăn với anh. Một Bảo Ninh già nua và lánh mình đã trở nên quen thuộc với mọi người. Rượu cũng không còn là thứ hấp dẫn được anh. Bảo Ninh từ chối mọi cuộc rượu.Thỉnh thoảng gặp anh ở một chỗ nào đấy thì đó là hãn hữu và bất ngờ”.

Không chỉ tranh luận quanh tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh, có người thấy buồn khi những cái tên lừng lững trong văn học Việt Nam hiện đại không được vinh danh như Nguyên Ngọc, Nguyễn Duy, Bùi Ngọc Tấn, Hoàng Quốc Hải, Phạm Tiến Duật… Nhà văn Dương Hướng đáp lại: “Nỗi buồn này chẳng của riêng ai. Hội đồng thẩm định cũng có cái khó khi chỉ được chọn 50 mà tác phẩm của các tác giả trải dài cả nửa thế kỷ”.