Cử nhân luật...không soạn được hợp đồng
Mở đầu tọa đàm, thạc sĩ Trần Cao Thành – Thư ký Ban điều hành Mạng lưới các cơ sở đào tạo luật tại Việt Nam cho biết, nhiều sinh viên ngành luật dù có thành tích học tập tốt nhưng khi đi làm lại không thể soạn được những văn bản và hợp đồng cơ bản. Đây là một thực trạng “đáng báo động”.
Theo ông Thành, Việt Nam hiện có ba mô hình đào tạo luật: Các trường chuyên ngành luật; khoa luật thuộc đại học đa ngành và bộ môn luật thuộc các khoa trong trường đa ngành. Đặc biệt, mô hình thứ ba nếu không được đầu tư bài bản về đội ngũ, cơ sở vật chất và nghiên cứu khoa học sẽ khó đáp ứng chuẩn đào tạo khiến sinh viên hạn chế trong khả năng tiếp cận thực hành nghề luật, hoạt động nghiên cứu hay rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp.
Ông Thành cho rằng dù điều kiện mở ngành đã có quy định, chất lượng đào tạo vẫn chênh lệch lớn giữa các cơ sở, dẫn đến sự thiếu thống nhất trong chuẩn đầu ra.
Dưới góc độ đơn vị sử dụng nhân lực pháp lý, TS Nguyễn Gia Viễn – Kiểm sát viên cao cấp, Viện KSND Tối cao cảnh báo: “Hầu hết sinh viên hiện nay đến kỹ năng cơ bản nhất là soạn thảo văn bản theo đúng chuẩn cũng không làm được”.
Ông Viễn khẳng định nhiều đơn vị buộc phải đào tạo lại toàn bộ, kể cả ngoại ngữ pháp lý, khiến các cơ quan tuyển dụng chỉ tin tưởng tuyển ứng viên từ một số trường quen thuộc. Điều này vô tình thu hẹp cơ hội việc làm với sinh viên các cơ sở còn lại.
Ông Viễn đề xuất việc đào tạo cần gắn kết hơn với thực tiễn, tăng cường hoạt động thực hành và phù hợp với tinh thần chuyển đổi số theo Nghị quyết 57.
Không nên độc quyền đào tạo cử nhân luật
Thừa nhận chất lượng đào tạo không đồng đều, PGS.TS Lê Vũ Nam, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế – Luật (ĐHQG TP.HCM), chỉ ra những nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách quan, trong đó có việc chương trình đào tạo giảm số tín chỉ và giảng viên bị hạn chế hoạt động thực tiễn bên ngoài.
Theo ông Nam, để cải thiện chất lượng, các cơ sở đào tạo cần tăng số tín chỉ thực hành, mời chuyên gia từ thực tiễn như luật sư, thẩm phán, kiểm sát viên tham gia giảng dạy; đồng thời cần sự chung tay từ các cơ quan sử dụng lao động.
Ông Nam nhấn mạnh: “Vấn đề không phải là đào tạo ở trường chuyên ngành hay đa ngành mà là kiểm tra, giám sát để đảm bảo đầu ra”.
Từ góc độ chính sách, PGS.TS Lê Minh Hùng cho rằng không nên áp dụng cơ chế độc quyền trong đào tạo cử nhân luật, bởi điều này không chỉ thiếu cơ sở khoa học mà còn có thể gây xáo trộn mạnh đối với hệ thống đào tạo.
Đồng tình, PGS. TS Bùi Anh Thủy, Trưởng khoa Luật – ĐH Văn Lang, cho rằng nhu cầu nhân lực pháp lý hiện rất lớn, không chỉ trong hệ thống tư pháp mà còn ở khu vực kinh tế tư nhân, cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội.
Ông Thủy dẫn chứng việc hai cơ quan trung ương từng yêu cầu tuyển dụng công chức chỉ từ 10 trường đại học công lập có đào tạo luật, không dựa trên phương pháp đánh giá chất lượng cụ thể là bất hợp lý và không phản ánh đúng năng lực thực tế của toàn hệ thống.
Ông Thủy nhấn mạnh: Nhà nước cần sớm có kết luận rõ ràng để tránh gây nhiễu loạn tâm lý cho hàng chục nghìn sinh viên và giảng viên ngành luật hiện nay.
Từ những phân tích nêu trên, các chuyên gia thống nhất: Vấn đề cốt lõi của đào tạo luật không ở mô hình tổ chức trường, mà ở chất lượng đào tạo thực chất, nhất là kỹ năng thực hành, năng lực ngoại ngữ pháp lý và khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.