Chiến lược phát triển ngành dược được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1165/QĐ-TTg năm 2023, với định hướng đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất dược phẩm giá trị cao của khu vực, đồng thời bảo đảm người dân được tiếp cận thuốc an toàn, hợp lí về chi phí. Bên cạnh đó, chiến lược cũng đặt trọng tâm vào nâng cao năng lực quản lí chất lượng và đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, đáp ứng yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng.
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên, quá trình triển khai chiến lược thời gian qua được tiến hành đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm. Một trong những kết quả nổi bật là khả năng bảo đảm nguồn cung thuốc cho hệ thống y tế. Việc cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong cấp phép lưu hành, cùng với việc mở rộng năng lực thẩm định đã giúp rút ngắn đáng kể thời gian xử lí hồ sơ. Số lượng thuốc được cấp mới và gia hạn đăng kí lưu hành tăng nhanh qua các năm, từ hơn 1.300 thuốc năm 2020 lên trên 13.500 thuốc năm 2024. Đến cuối tháng 11.2025, cả nước có hơn 23.000 thuốc còn hiệu lực, đáp ứng cơ bản nhu cầu khám, chữa bệnh.
Cùng với bảo đảm nguồn cung, công nghiệp dược trong nước cũng cho thấy sự tăng trưởng bền bỉ. Quy mô thị trường dược phẩm Việt Nam đã mở rộng nhanh chóng, từ khoảng 2,7 tỉ USD năm 2015 lên trên 7 tỉ USD năm 2024. Đáng chú ý, thuốc sản xuất trong nước hiện chiếm khoảng 60% về số lượng sử dụng và gần một nửa về giá trị, phản ánh bước tiến rõ rệt về năng lực sản xuất cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nội. Hiện cả nước có 245 cơ sở sản xuất thuốc, trong đó 26 nhà máy đạt tiêu chuẩn EU-GMP hoặc tương đương.
Việt Nam hiện nằm trong nhóm các thị trường dược phẩm tăng trưởng nhanh nhất châu Á. Riêng mảng thuốc nội, giá trị sản xuất duy trì mức tăng trưởng 12–15% mỗi năm. Năng lực sản xuất đã bao phủ đầy đủ 13 nhóm thuốc thiết yếu và phần lớn các loại vắc xin trong Chương trình tiêm chủng mở rộng. Hoạt động xuất khẩu cũng có chuyển biến tích cực, với 67 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu thuốc và nguyên liệu, đạt tổng kim ngạch khoảng 312 triệu USD.
Công tác quản lí chất lượng tiếp tục được siết chặt, góp phần củng cố niềm tin của người dân và hệ thống y tế. Tỉ lệ thuốc kém chất lượng hiện duy trì dưới 1,5%, thuốc giả dưới 0,1%, thấp hơn mức trung bình toàn cầu. Trong nhiều năm liền, giá thuốc cơ bản ổn định, chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế luôn thấp hơn CPI chung. Đặc biệt, tỉ lệ sử dụng thuốc nội tại các cơ sở khám, chữa bệnh đã tăng mạnh, từ mức 15–19% năm 2016 lên gần 30% vào năm 2024.
Chuyển đổi số được xác định là một trong những trụ cột quan trọng của chiến lược phát triển ngành dược. Đến nay, hệ thống cung ứng thuốc tại 34 tỉnh, thành phố đã được kết nối liên thông; dữ liệu về hàng chục nghìn thuốc, nguyên liệu và cơ sở sản xuất, kinh doanh dược được công khai, góp phần nâng cao tính minh bạch trong quản lý. Hoạt động dược lâm sàng được triển khai rộng rãi tại hầu hết các bệnh viện, trong khi chất lượng nguồn nhân lực từng bước được cải thiện, thể hiện qua số lượng dược sĩ đại học trên 10.000 dân liên tục tăng.
Dù đạt nhiều kết quả tích cực, ngành dược vẫn đứng trước không ít thách thức. Năng lực cạnh tranh của sản xuất trong nước chưa thực sự bền vững; đầu tư cho nghiên cứu và phát triển còn hạn chế; phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Bên cạnh đó, nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực chuyên sâu vẫn thiếu hụt, trong khi hợp tác với các tập đoàn dược quốc tế chưa đi vào chiều sâu về chuyển giao công nghệ.
Trước thực tế đó, Bộ Y tế cho biết thời gian tới sẽ tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, đẩy mạnh phân cấp, cải cách thủ tục hành chính, tăng cường quản lý chất lượng và giá thuốc. Việc thúc đẩy chuyển giao công nghệ, phát triển R&D, xây dựng các khu công nghiệp dược sinh học hiện đại được xác định là hướng đi chiến lược. Song song với đó là đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái dữ liệu ngành dược và từng bước tiệm cận các chuẩn mực quốc tế trong quản lý thuốc và vắc xin.