Bản tình ca muộn
Chia sẻ câu chuyện phía sau MV, Nguyễn Mạnh Hà nói rằng, Chuyện cổ tích về cha anh viết riêng cho mối quan hệ với người cha vừa mới khuất của mình. Thói đời vốn chẳng dễ dàng, câu chuyện con muốn phụng dưỡng nhưng cha mẹ không đợi, thời nào, lúc nào, hoàn cảnh nào cũng phổ biến. Và bởi vì nó là mẫu số chung, nên dễ chạm, dễ khiến người ta đồng cảm.
Trước khi viết Chuyện cổ tích về cha, Hà là một nhà thơ phức tạp, theo cảm nhận của tôi. Nhưng đến bài này, anh đơn giản một cách hơi bất ngờ. Nỗi lòng của người con đối với cha cứ tự nhiên mà bật ra, giống như không cần phải suy nghĩ, sắp xếp, hay là “làm văn”: “Bao nhiêu mộng đẹp tan dần theo tuổi đời/ Hẹn ước năm xưa cũng đã ngủ yên/ Khi con về nhà, phòng cha đã thôi sáng đèn/ Còn đâu đây, niềm đau mãi không thành lời”.
Sự dụng công của Hà ở đây, có lẽ không nằm ở phía câu từ, có lẽ cũng không phải ở phần âm nhạc, nói thêm là bài này do anh đảm trách cả nhạc và lời, mà ở việc phải nói ra những cảm giác tiếc nuối, day dứt, thương nhớ, đôi chút tự trách… Những cảm xúc ấy dồn nén, tràn đến nỗi, khiến người con phải tìm cách “hét lên” giống như tiêu đề một cuốn tiểu thuyết của Trì Lợi, Hễ sướng thì hét lên, hoặc là “hát lên”. Tất nhiên, hát hợp với Hà hơn. Từ nhiều năm trước, anh đã lấy nghệ danh Khôi Minh để thử lấn sang thị trường âm nhạc. Nhiều lần tham dự những show lớn lớn nhỏ nhỏ của Hà, có khi thấy khách quay đi quay lại vẫn là những nhóm quen thuộc ấy, tôi hỏi anh: Cứ kiên trì với hành trình ấy, có đúng không (hoặc là đáng không)? Khi ấy, Hà nói một câu làm tôi nhớ mãi: Mỗi ca sĩ bằng cách này hay cách khác, rồi thì họ sẽ đều có khán giả riêng của mình thôi.
Dẫu nhiều dẫu ít, được hát cho những người ấy chẳng phải cũng là một kiểu vui hay sao? Về sau, phỏng vấn nhà văn Nguyễn Bình Phương, tôi cũng hỏi một câu tương tự, nhà văn trả lời thế này: “Nhiệm vụ của nhà văn là phải viết. Chỉ cần trên thế gian còn một người duy nhất, thậm chí không còn ai nhưng anh vẫn phải viết, vì anh là nhà văn”. Ở thời điểm vẫn đang dành toàn thời gian cho việc làm báo, có lẽ con đường phía sau của Nguyễn Mạnh Hà cũng đã được mặc khải rồi.
Có người bảo việc lấy nước mắt của người khác thì Hà có nghề, anh xuất thân là nhà báo văn hóa văn nghệ, hơn nữa còn làm thơ. Nhưng tôi vẫn cho rằng, Hà chạm được vào cảm xúc của số đông do anh đã rất thành thật với cảm xúc riêng của mình.
Một nhà thơ “khác”
Phải thú thật là ban đầu tôi hơi ngại đọc thơ của Nguyễn Mạnh Hà, bởi anh bàn đến toàn những vấn đề “to” quá: những câu chuyện của Thượng Đế, của Chúa trời, của đấng sáng tạo, của Trái đất. Tôi không nói thế là không hay, đó là con đường của rất nhiều ông lớn như Rainer Maria Rilke, T. S. Eliot hoặc là Walt Whitman, nhưng với tạng của mình, tôi vẫn thích những câu chuyện mang tính cá nhân và tình cảm hơn. Đây hoàn toàn là gu, không liên quan đến việc đánh giá thơ hay thơ dở.
Tất nhiên, trong cả tập Sự tích Chúa của Nguyễn Mạnh Hà cũng có nhiều câu chuyện cá nhân, kiểu như: Thơ sau khi ho, Thơ sau khi tắm, Thơ trong khi phơi, Độc thoại của người ốm…, nhưng những bài thơ này chỉ chiếm số ít. Có điều, dù là bắt đầu bằng những câu chuyện nhỏ, hay câu chuyện mang tính phổ quát hơn, Hà luôn đưa ra một cái nhìn “độc lạ” so với ê hề những người làm thơ đương thời.
Lấy ví dụ, Hà viết: “Tôi mang mật hiệu của sự sống /Truy tầm sự sống/Để sống/Nếu không tôi sẽ chết/ Tôi cài vào một sự sống/Chúng ta cùng sống/Nhưng không hiếm khi sự va chạm của hai sự sống/Dẫn đến cái chết… /Đó không hẳn định mệnh/Mà giống như tai nạn/Bất kỳ tai nạn nào trên đời/Luôn có hai mặt /Ví dụ, tai nạn của Trái Đất/Là vận may của loài người/Tai nạn của loài người/Giúp tôi xây đế chế”. Đây là lời anh nói hộ con virus Corona, ở thời điểm nó vừa quét qua thế giới và gieo rắc kinh hoàng cho cả nhân loại. Ít người làm như thế lắm, nếu không muốn nói là “chỉ có Hà”. Thiếu gì cái hay, cái đẹp, cái rung cảm mà phải viết về câu chuyện của một con virus. Thế nhưng, dòng thơ của Hà, lại được định danh hẳn hoi. Giới phê bình gọi nó là loại thơ tân hình thức, một kiểu thơ tự do nhưng có nhịp; giống văn xuôi nhưng vẫn là thơ; không vần nhưng có nhịp lặp; ngôn ngữ đời thường nhưng giàu ám ảnh.
Hà còn nhiều đoạn thơ “khác” nữa, ví như: “Hoàng tử hôn công chúa ếch/Rồi hoàng tử hôn cung nữ/Cung nữ vuốt má bác làm vườn/Bác làm vườn cho cậu bé đánh giày quả táo/Quả táo được chia cho cô bé bán vé số/Tờ vé số rơi vào tay kẻ trộm chó/Trộm chó khạc vào cây hoa ven đường/Cây hoa chết mang theo mầm bệnh cúm ếch…” (bài này cũng đã được anh phổ nhạc).
Thế giới tưởng tượng của anh luôn nhiều phi lý và đầy tinh thần hậu hiện đại kiểu thế. Đây không phải thơ trữ tình. Các câu được xâu chuỗi theo logic “A chạm B, B chạm C, C chạm D”, giống trò chơi truyền tay hoặc hiệu ứng domino. Chính sự vô lý có chủ đích này tạo nên cảm giác hài hước đen (dark comedy), đồng thời mô phỏng cách thế giới vận hành: hỗn loạn, liên đới, và đầy nghịch lý. Mà có lẽ, cũng bởi thế, Hà lại tạo được một mã QR của riêng anh, phổ cập hay khu biệt chưa bàn, chỉ biết là nó đầy bất ngờ và thú vị.