Vùng chè trên đá
Gió từ phía cột cờ Lũng Cú thổi về, mang theo cái lạnh rất riêng của vùng cực Bắc. Trên triền đá xám, những luống chè xanh hiện ra xanh mát. Người dân trong bản đã quen với nhịp lên nương từ lúc mặt trời còn khuất sau dãy núi.
Lô Lô Chải nằm ở độ cao hơn 1.400m so với mực nước biển. Địa hình đá vôi chiếm phần lớn diện tích, tầng đất mỏng, dốc, khó canh tác. Nhưng chính điều kiện khắc nghiệt ấy lại tạo ra lợi thế cho cây chè. Khí hậu mát mẻ quanh năm, chênh lệch nhiệt độ ngày – đêm lớn, sương mù dày vào sáng sớm giúp búp chè phát triển chậm, tích tụ hương vị tự nhiên.
Không phải ngẫu nhiên mà từ nhiều năm trước, người dân nơi đây đã chọn chè làm cây trồng gắn bó lâu dài. Ban đầu chỉ là vài nương nhỏ để uống trong nhà, dần dần, chè trở thành cây trồng hàng hóa, thay thế một phần nương ngô, nương lúa kém hiệu quả.
Với người Lô Lô, người Mông ở Lô Lô Chải, chè không chỉ là cây trồng, mà còn là một phần sinh hoạt hằng ngày. Chén chè nóng buổi sáng, ấm chè đặt giữa nhà trong những ngày mưa gió, hay bát nước chè mời khách phương xa, tất cả tạo nên một nếp sống chậm, bền bỉ như chính cây chè bám rễ trên đá.
Nhiều hộ gia đình coi nương chè là “của để dành”. Chè cho thu hái quanh năm, ít rủi ro hơn so với các loại cây trồng ngắn ngày. Khi giá nông sản bấp bênh, cây chè vẫn mang lại nguồn thu ổn định, dù không lớn nhưng đều đặn.
Những năm gần đây, vùng chè Lô Lô Chải được quy hoạch, mở rộng diện tích theo hướng sản xuất tập trung. Cây chè góp phần tạo việc làm tại chỗ cho lao động địa phương, nhất là phụ nữ và người cao tuổi. Vào vụ thu hái, cả bản cùng lên nương, người hái chè, người gùi chè, không khí lao động rộn ràng giữa núi đá.
Quan trọng hơn, cây chè giúp người dân bám đất, bám bản. Khi có sinh kế ổn định, nhiều hộ không còn phải rời quê đi làm thuê xa nhà. Những đứa trẻ lớn lên cùng nương chè, cùng câu chuyện làm ăn của cha mẹ, dần hình thành ý thức giữ đất, giữ rừng.
Chè ở Lô Lô Chải không nhiều sản lượng, nhưng có cái “chất” riêng. Nước chè xanh trong, vị đậm, hậu ngọt kéo dài, hương thơm nhẹ của núi đá và sương gió. Phần lớn chè được trồng, chăm sóc theo hướng gần tự nhiên, ít sử dụng phân bón hóa học. Đó là lợi thế để vùng chè cực Bắc này hướng tới chè sạch, chè đặc sản, gắn với câu chuyện địa phương. Khi du khách đến Lũng Cú, Lô Lô Chải, không chỉ tham quan cột cờ, mà còn muốn mang về một thứ gì đó đậm chất vùng cao. Chè vì thế trở thành sản phẩm kể được câu chuyện của đất và người nơi đây. Cây chè đã bám rễ trên đá, và đang dần trở thành điểm tựa sinh kế cho bản làng Lô Lô Chải.
Gương thanh niên khởi nghiệp, biến nương chè thành sinh kế bền vững
Trong gian nhà sao chè giữa bản, mùi chè mới lan tỏa theo làn khói mỏng. Tiếng máy sao hòa cùng tiếng trò chuyện rôm rả. Ở đó, Sùng Mí Nu, một thanh niên người Mông sinh ra và lớn lên tại Lô Lô Chải, đang cùng các thành viên hợp tác xã kiểm tra mẻ chè vừa hoàn thiện.
Từng có thời gian rời bản đi làm thuê, nhưng rồi Nu nhận ra, cây chè quê mình nếu chỉ bán thô thì mãi quanh quẩn nghèo. Trở về Lô Lô Chải, anh đứng ra thành lập mô hình hợp tác xã chè, liên kết các hộ trồng chè trong bản, từng bước tổ chức lại sản xuất theo hướng bài bản hơn.
Từ khâu thu hái, sao sấy đến đóng gói, Nu trực tiếp hướng dẫn bà con làm đúng kỹ thuật, giữ chất lượng ổn định. Chè không còn bán xô với giá thấp, mà được chế biến thành chè khô, chè đặc sản, có nhãn mác, có câu chuyện nguồn gốc rõ ràng.
Hợp tác xã do Sùng Mí Nu làm nòng cốt hiện tạo việc làm thường xuyên cho 4 lao động địa phương, với mức thu nhập ổn định trên 3 triệu đồng/người/tháng. Với vùng cao còn nhiều khó khăn như Lô Lô Chải, đây là nguồn thu đáng kể, giúp nhiều hộ yên tâm ở lại bản làm ăn, không phải đi làm thuê xa nhà.
Không chỉ tạo việc làm, mỗi năm doanh thu của hợp tác xã đạt trên 70 triệu đồng, trở thành điểm sáng trong các mô hình thanh niên khởi nghiệp tại địa phương. Số tiền ấy không lớn nếu so với miền xuôi, nhưng ở vùng cực Bắc, đó là kết quả của sự kiên trì, đổi mới cách làm và tư duy làm kinh tế của người trẻ.
Lô Lô Chải là điểm du lịch cộng đồng nổi tiếng dưới chân cột cờ Lũng Cú. Nhận thấy tiềm năng ấy, Sùng Mí Nu và các thành viên hợp tác xã mạnh dạn gắn sản xuất chè với du lịch trải nghiệm. Du khách đến bản được theo người dân lên nương hái chè, nghe kể chuyện trồng chè trên đá, tự tay sao chè, pha chè uống giữa sân nhà.
Chén chè nóng trong gió lạnh cao nguyên trở thành ký ức khó quên, giúp giữ chân du khách lâu hơn ở bản, đồng thời mở thêm đầu ra cho sản phẩm chè địa phương. Nương chè không chỉ là nơi sản xuất, mà còn là không gian văn hóa, không gian trải nghiệm.
Từ mô hình của Sùng Mí Nu, nhiều hộ dân trong bản thay đổi cách nghĩ, chú trọng hơn đến chất lượng chè, giữ gìn cảnh quan nương chè, đường làng, ngõ bản. Phụ nữ có thêm thu nhập từ hái chè, chế biến, phục vụ du lịch. Thanh niên có việc làm tại chỗ, giảm tình trạng di cư lao động.
Để cây chè thực sự trở thành sinh kế bền vững, Lô Lô Chải đang hướng tới xây dựng vùng chè sạch, từng bước chuẩn hóa quy trình sản xuất, gắn với chương trình OCOP và du lịch cộng đồng. Vai trò định hướng của chính quyền cơ sở, tổ chức đoàn thể, đặc biệt là Đoàn Thanh niên, ngày càng rõ nét trong việc hỗ trợ kỹ thuật, kết nối tiêu thụ, quảng bá sản phẩm.
Từ những nương chè cheo leo trên đá, người trẻ như Sùng Mí Nu đang mở ra con đường thoát nghèo bằng chính lợi thế bản địa, để chè không chỉ là cây trồng, mà là câu chuyện sinh kế, là tương lai của bản làng Lô Lô Chải nơi cực Bắc Tổ quốc.
Đoàn Thanh niên xã Lũng Cú đề xuất khen thưởng anh Sùng Mí Nu (sinh năm 1993), Ủy viên Ban Chấp hành Đoàn xã, Bí thư Chi đoàn thôn Lô Lô Chải B, vì những đóng góp nổi bật trong công tác Đoàn và phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương. Là đảng viên trẻ, anh Sùng Mí Nu luôn nghiêm túc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; gương mẫu trong sinh hoạt chi bộ, tích cực tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện tốt các quy định của địa phương. Với vai trò Bí thư Chi đoàn thôn, đồng chí chủ động đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tạo uy tín trong cộng đồng đồng bào dân tộc, trở thành hạt nhân đoàn kết, tập hợp thanh niên tại cơ sở.
Trong công tác phong trào, anh Nu tích cực tham gia và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực như huy động đoàn viên thanh niên vệ sinh môi trường, phối hợp nắm tình hình an ninh trật tự tại thôn bản, vận động nguồn lực xã hội thăm hỏi, hỗ trợ các hộ dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai, qua đó góp phần giữ vững ổn định đời sống và an ninh nông thôn.
Đặc biệt, từ đầu năm 2025, anh Sùng Mí Nu đã tiên phong triển khai mô hình hợp tác xã chè với tổng diện tích khoảng 1,5 ha, trong đó có khu sản xuất kết hợp điểm dừng chân và vùng trồng chè, khai thác nguồn chè tự nhiên trên diện tích khoảng 15 ha rừng. Hợp tác xã hiện có 4 sản phẩm chè, sản lượng bình quân khoảng 180 kg/năm, doanh thu ước đạt trên 70 triệu đồng/năm, tạo việc làm thường xuyên cho 4 lao động địa phương. Mô hình không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn góp phần mở hướng giảm nghèo bền vững, khẳng định vai trò xung kích của thanh niên trong phát triển kinh tế bản làng vùng cao.