Những nút thắt trong quản lý KOL, nghệ sĩ quảng cáo

Việc sửa đổi Luật Quảng cáo năm 2025 đặt nền móng pháp lý để bảo vệ người tiêu dùng, tạo sự minh bạch trong thị trường quảng bá cá nhân. Nhưng ai sẽ giám sát? Ai đủ thẩm quyền xử lý khi hàng nghìn nội dung sai lệch phát tán mỗi ngày trên mạng xã hội?

Chưa rõ cơ quan đầu mối

Luật Quảng cáo từ trước tới nay vốn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì xây dựng, nhưng khi bước vào thực thi, lại cần sự phối hợp chặt chẽ của Bộ Công Thương (quản lý thương mại, khuyến mại) và Bộ Y tế (trong trường hợp sản phẩm liên quan đến sức khỏe, thực phẩm chức năng, mỹ phẩm...).

Nếu không xác lập rõ một cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm tổng thể trong giám sát hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội, thì đây là rào cản lớn khiến việc thực thi dễ rơi vào tình trạng cha chung không ai khóc.

“Với môi trường mạng, việc xử lý vi phạm đòi hỏi phải có hệ thống giám sát kỹ thuật số, có khả năng phát hiện nhanh nội dung quảng cáo, đối chiếu pháp lý và ra quyết định xử lý. Nhưng hiện nay, chúng ta không có một bộ phận chuyên trách nào đủ thẩm quyền lẫn năng lực kỹ thuật để làm điều đó một cách hiệu quả”, luật sư Trần Minh Tuấn nói.

Tiến sĩ nghiên cứu văn hóa số Lê Quỳnh Trang cho rằng, một trong những nút thắt lớn nhất là Việt Nam chưa có cơ sở dữ liệu thống nhất và minh bạch về những cá nhân, tổ chức đang hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực quảng cáo, đặc biệt là trên mạng xã hội.

Không có danh sách người có ảnh hưởng, không có hệ thống đăng ký hành nghề, không có mã số nghề nghiệp hay cam kết đạo đức ngành nghề, đồng nghĩa với việc quản lý hoàn toàn bị động.

Nếu không có hệ thống quản lý đầu vào, thì hậu kiểm sẽ luôn ở thế “đuổi theo” mà không bao giờ kịp.

“Tôi cho rằng đã đến lúc cần xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về người chuyển tải quảng cáo chuyên nghiệp. Những người hưởng lợi trực tiếp từ việc sử dụng ảnh hưởng cá nhân để quảng bá sản phẩm, dịch vụ, tức là đang làm công việc có thu nhập như một nghề, thì phải được quản lý như những nghề có điều kiện”, ông Trần Minh Tuấn nêu.

Nghị định đã có, vì sao vẫn quảng cáo sai?

Năm 2018, Chính phủ ban hành Nghị định 15/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm. Điều 7 của nghị định này nêu rất rõ: “Không được sử dụng hình ảnh, thiết bị, trang phục, tên, thư tín của các cơ sở y tế, bác sĩ, dược sĩ, nhân viên y tế, thư cảm ơn của người bệnh; bài viết của bác sĩ, dược sĩ, nhân viên y tế để quảng cáo thực phẩm”.

Tuy nhiên, chỉ cần vài phút lướt mạng xã hội, người dùng có thể dễ dàng bắt gặp hàng loạt video, bài đăng có nội dung “Bác sĩ khuyên dùng…”, “Chuyên gia dinh dưỡng chia sẻ…”, đi kèm hình ảnh người mặc áo blouse trắng hay giấy cảm ơn được dựng sẵn.

Tình trạng tương tự cũng diễn ra với Nghị định 181/2013/NĐ-CP, trong đó cấm sử dụng hình ảnh nghệ sĩ để quảng cáo rượu, bia, thuốc lá. Nhưng trên thực tế, không hiếm nghệ sĩ vẫn đăng tải hình ảnh sử dụng rượu trong các bữa tiệc sang trọng, hoặc lồng ghép logo nhãn hàng vào video, tạo hiệu ứng truyền thông mà không hề trực tiếp kêu gọi.

Ngoài ra, hình thức “livestream giới thiệu quán bar, sản phẩm nhập khẩu”, “đánh giá hương vị” hay gợi ý lựa chọn cho dịp lễ... đều là những cách lách luật ngày càng phổ biến.

Các nghệ sĩ Quyền Linh, Hồng Vân cũng từng dính “phốt” quảng cáo sai sự thật, sau đó họ “xin lỗi khán giả vì ngộ nhận”

Luật sư Trần Minh Tuấn nhận định: “Quy định đã có từ lâu, nhưng chúng ta thiếu một yếu tố cực kỳ quan trọng: lực lượng giám sát chuyên nghiệp và cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan quản lý.

Ngoài ra, mức xử phạt còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe. Trong khi người vi phạm có thể kiếm hàng trăm triệu đồng từ một chiến dịch quảng cáo sai lệch, thì mức phạt vài chục triệu đồng chỉ như một phần nhỏ chi phí truyền thông”.

Bên cạnh đó, không gian mạng xã hội diễn ra vi phạm nhiều nhất lại khó kiểm. Các nền tảng xuyên biên giới như Facebook, TikTok, YouTube… thường không gỡ nội dung vi phạm nếu không có yêu cầu chính thức từ phía Việt Nam.

Quá trình gửi yêu cầu, xử lý, phản hồi thường kéo dài hoặc không thực hiện triệt để. Hệ thống hậu kiểm hiện nay chủ yếu dựa vào đơn thư phản ánh hoặc báo chí vào cuộc, chưa có cơ chế giám sát tự động và chủ động.