TPO - Tự Đức được cho là vị vua hay chữ bậc nhất và cũng là ông vua hiếu thảo bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Do bị bệnh từ nhỏ ông là vua duy nhất của triều Nguyễn không có con nối dõi.
Tự Đức (1829-1883) là vị vua thứ tư của triều Nguyễn, là con trai vua Thiệu Trị. Trị vì đất nước trong 36 năm (1847-1883), ông là vị vua ngồi trên ngai vàng lâu nhất trong số 13 đời vua của triều Nguyễn.
Tự Đức là vị vua hay chữ nhất triều Nguyễn. Theo một số tài liệu, sinh thời, vua sáng tác tới hơn 4.000 bài thơ. Giỏi văn chương, làm việc siêng năng nhưng trái với giai đoạn trước, triều Nguyễn dưới thời Tự Đức ngày càng suy yếu. Chính trong thời kỳ trị vì của mình, Tự Đức đã để đất nước ta rơi vào tay thực dân Pháp.
Do bị bệnh từ nhỏ, cơ thể ốm yếu, Tự Đức cũng chính là vị vua duy nhất của triều Nguyễn không có con nối dõi, dù ông có tới cả trăm vợ.
Tuyên án bằng thơ
Vốn là ông thơ hay chữ nhất triều Nguyễn, sinh thời, vua Tự Đức thường vận dụng thơ ca vào các bản chiếu, biểu chính sự, ngay cả khi tuyên án kẻ phạm tội.
Ngày đó, vị quan thanh liêm, chính trực là Vũ Dinh có lần cho lính theo dõi bắt được người coi kho lấy trộm tiền, giấu vào túi áo rồi trốn ra quán uống rượu. Dù số tiền không nhiều, chuyện đến tai Tự Đức, ông cho rằng tội biển thủ nếu không trị nặng thì có ngày kho tàng sẽ trống rỗng.
Nghĩa là: Một ngày một đồng / Nghìn ngày nghìn đồng / Dây cưa gỗ đứt / Nước chảy đá mòn / Tội bất dung tha / Lệnh truyền xử chém.
Vua Tự Đức đã làm bài thơ kết án kẻ tham nhũng: Nhất nhật nhất tiền / Thiên nhật thiên tiền / Thằng cứ mộc đoạn / Thủy trích thạch xuyên / Tội bất dung tru / Ly ưng xử trảm.
Chiếu theo nội dung bài thơ của vua Tự Đức, viên quan tham nhũng vặt đã bị quan Hình bộ xử chém sau đó.
Dâng roi mây cho mẹ đánh đòn
Sách Chín đời chúa, mười ba đời vua triều Nguyễn kể rằng một hôm rảnh việc nước, vua Tự Đức đi săn tại rừng Thuận Trực (Kim Long), gặp nước lụt không về được, trong khi chỉ còn hai ngày nữa có kỵ vua Thiệu Trị. Thấy vua chưa về, Đức Từ Dũ nóng ruột, phải sai quan đại thần Nguyễn Tri Phương đi rước.
Biết làm thái hậu lo lắng nên sau khi về đến cung lúc nửa đêm, nhà vua vội vàng lên kiệu trần đi thẳng sang cung, lạy xin chịu tội. Đức Từ Dũ ngồi xoay mặt vào màn, chẳng nói chẳng rằng.
Vua Tự Đức bèn lấy cây roi mây, dâng lên để trên ghế trát kỷ rồi ngài nằm xuống xin chịu đòn. Cách một hồi lâu, Đức Từ Dũ xoay mặt ra lấy tay hất cái roi mà ban rằng: “Thôi, tha cho! Đi chơi để cho quan quân cực khổ thì phải ban thưởng cho người ta, rồi sớm mai đi hầu kỵ”.
Sau khi rời cung, ngay trong đêm ấy, vua đã thức rất khuya tại điện Càn Thành để thực hiện những điều mẹ dạy.
Với tình cảm đặc biệt dành cho mẹ mình, Tự Đức được xem là ông vua hiếu thảo bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Do không có con nối dõi, nên sau khi vua Tự Đức băng hà, nhà Nguyễn trải qua thời kỳ đen tối 4 tháng thay 3 vua. Liền sau đó là sự kiện thất thủ kinh đô năm 1885, thất bại hoàn toàn về phía triều đình Huế, khiến hàng nghìn người chết.
-
icon
Nguyễn Phúc Thì
-
icon
Nguyễn Phúc Hồng Dật
-
icon
Nguyễn Phúc Ưng Ái
B là đáp án đúng. Vua Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Thì, tự là Hồng Nhậm, sinh ngày 25/8 năm Kỷ Sửu (1829). Ông là con vua Thiệu Trị và Hoàng quý phi Phạm Thị Hằng (sau là Từ Dụ Thái hậu). Năm 1847, vua Thiệu Trị lâm bệnh rồi qua đời, nhường lại ngai vàng cho Hồng Nhậm, khi đó mới 19 tuổi. Nguyễn Phúc Ưng Ái là tên húy của vua Dục Đức (lên ngôi được 3 ngày vào năm 1883), còn có tên là Ưng Chân, là con thứ hai của Thoại Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga. Ông là con nuôi của vua Tự Đức. Nguyễn Phúc Hồng Dật là tên của vua Hiệp Hòa (lên ngôi từ 7/1883 đến 11/1883), con thứ 29 của vua Thiệu Trị và bà Đoan tần Trương Thị Thuận, là em khác mẹ của vua Tự Đức.
B là đáp án đúng. Vua Tự Đức nổi tiếng là người con hiếu thảo. Suốt 36 năm làm vua, cứ ngày lẻ vua ngự triều, ngày chẵn vào chầu cung thăm nom mẹ, không khi nào chểnh mảng. Khi vào hầu bà Từ Dụ, nhà vua thường nén hơi, quỳ xuống hỏi thăm sức khỏe của mẹ rồi cùng mẹ luận bàn về kinh sách và sự tích xưa nay, nhất là chuyện chính sự. Cũng nhờ từ nhỏ được bà Từ Dụ nuôi nấng dạy bảo nên Tự Đức không bị vướng vào lối sống xa hoa buông thả như nhiều hoàng tử khác. Bà Từ Dụ cũng luôn ở bên con để bảo ban, khuyên nhủ về đạo lý làm vua, nhắc nhở con đề phòng kẻ xấu. Tình cảm của hai mẹ con được người đời ca ngợi.
-
icon
103
-
icon
104
-
icon
105
A là đáp án đúng. Dù có 103 bà vợ nhưng vua Tự Đức không có người con ruột nào vì lúc nhỏ mắc bệnh đậu mùa, lại đau ốm liên miên nên sức khỏe không được tốt. Ông đành nhận ba người cháu ruột làm con nuôi là Ưng Chân, Ưng Biện và Ưng Đăng. Ưng Chân là con trai của Thoại Thái Vương Hồng Y, được giao cho Hoàng Quý phi Vũ Thị Duyên Hải, vợ chính của vua Tự Đức nuôi dạy. Sau này, khi Tự Đức qua đời, Ưng Chân được lên làm vua, được gọi là vua Dục Đức. Ưng Đường (có sách ghi là Ưng Kỷ hay Ưng Biện) là con của Kiên Thái Vương Hồng Cai, được giao cho bà Thiện phi Nguyễn Thị Cẩm nuôi. Ưng Đăng cũng là con của Kiên Thái Vương, được giao cho bà Học phi Nguyễn Thị Hương trông nom, dạy bảo.
-
icon
Quan văn
-
icon
Quan võ
-
icon
Cả quan văn lẫn quan võ
B là đáp án đúng. Cuốn Gần 400 năm vua chúa triều Nguyễn ghi lại, dưới thời vua Tự Đức, quan văn được trọng hơn quan võ rất nhiều. Vua Tự Đức đam mê văn chương từ nhỏ. Bản thân ông cũng là một nhà thơ. Khi lên ngôi, ngoài các khoa thi đã được lập từ thời Gia Long như thi Đình, thi Hương, ông còn đặt thêm khoa Nhã sĩ và khoa Cát sĩ để chọn người giỏi văn làm quan. Chính vì vậy thời Tự Đức văn học rất phát triển, xuất hiện nhiều nhà thơ có tài như Cao Bá Quát, Nguyệt Đình, Huệ Phố… Trong hoàng tộc, vua đặc biệt kính trọng những thân thuộc có tài văn học. Vua Tự Đức cũng quan tâm việc võ bị. Năm 1865, vua cho mở khoa thi Tiến sĩ võ. Nhưng nhìn chung dưới triều Tự Đức, quan võ không được trọng bằng quan văn, vì vậy dân gian có câu: “Trâu buộc thì ghét trâu ăn/ Quan võ thì ghét quan văn dài quần”. Câu ca cho thấy sự thua thiệt của quan võ so với quan văn, điều khá nghịch lý vì trong thời loạn bị Pháp đô hộ, việc võ bị lẽ ra phải đặt lên hàng đầu. So với thời Gia Long, việc tổ chức quốc phòng thời Tự Đức hầu như ngược lại. Quân đội không được ưu tiên trang cấp nữa, ngân khoản eo hẹp. Các võ tướng không còn nắm những địa vị trọng yếu trong triều đình. Đa số tướng võ có huân công (như Nguyễn Tri Phương) xuất thân từ văn thần mà ra.
-
icon
Huấn địch thập điều
-
icon
Thập điều diễm ca
-
icon
Khiêm Cung Ký
C là đáp án đúng. Cuốn Những vị vua hay chữ nước Việt viết Tự Đức là một trong những vị vua hay chữ nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Trong số 13 vua Nguyễn, Tự Đức uyên thâm nhất về nền học vấn Đông Phương, nhất là Nho học. Vua giỏi cả về sử học, triết học, văn học nghệ thuật và đặc biệt là rất sính thơ. Vua Tự Đức đã để lại 600 bài văn, 4.000 bài thơ chữ Hán và khoảng 100 bài thơ chữ Nôm. Các bài thơ của ông gồm nhiều chủ đề, vịnh sử, vịnh vật, nhân tình thế thái rất đa dạng. Một số tác phẩm tiêu biểu là Khiêm cung ký, Thập điều diễn ca, Khâm định đối sách chuẩn thằng, Tự Đức thánh chế văn, Ngự chế thi, Tự Đức cơ du tự tỉnh thi tập... Tác phẩm Huấn địch thập điều là của vua Minh Mạng, được ban bố vào năm 1834. Về sau vua Tự Đức diễn ca lại bằng thơ Nôm.
A là đáp án đúng. Trước khi băng hà, hoàng đế Thiệu Trị quyết định truyền ngôi cho Hồng Nhậm (vua Tự Đức), giao cho Trương Đăng Quế làm đại thần cố mệnh lo lập vua mới lên ngôi. Hồng Bảo, anh trai ruột của Hồng Nhậm tin đây không phải là ý vua cha mà nghĩ là do Trương Đăng Quế bày mưu nên quyết chí báo thù, tìm cách giành lại ngôi báu. Hồng Bảo tìm lực lượng để kết làm vây cánh, âm mưu cùng một số quan lại lật đổ Tự Đức nhưng không thành. Trong một bức thư viết năm 1855, giám mục Pellerin cho biết “Hoàng tử Hồng Bảo bị kết án lăng trì. Nhưng vua Tự Đức đã ân xá, đổi thành tù chung thân, giam trong một nhà ngục làm riêng cho ông… Thừa lúc một mình, ông dùng màn giường thắt cổ chết. Nhà vua cho chôn cất với một quan tài đơn sơ, không lễ nghi gì cả”. Sách Quốc triều chính biên ghi chép Hồng Bảo tự tử trong nhà giam. Sách Đại Nam thực lục cũng ghi "An-phong công là Hồng Bảo mưu khởi nghịch, rồi tự thắt cổ ở nơi giam. Tuy nhiên, Hồng Bảo chết âm thầm không ai chứng kiến nên về sau nhiều người nghi ngờ Hồng Bảo do vua Tự Đức giết. Điều nghi ngờ ấy là nỗi đau suốt đời của vua Tự Đức. Sách Gần 400 năm vua chúa triều Nguyễn ghi chép lại câu chuyện trong một bữa yến tiệc, vua Tự Đức đang ăn không may cắn phải lưỡi. Vốn thích ngâm vịnh, vua bảo các quan làm bài thơ với đề tài "Răng cắn lưỡi". Lúc ấy, Nguyễn Hàm Ninh là người có tài thơ nổi tiếng lại có tính ngang ngạnh khác người đã làm một bài. Bài thơ được tạm dịch "Ta ra đời trước chú chưa sinh/ Chú phận làm em, ta phận anh/ Ngọt bùi sao chẳng cùng chung hưởng/ Mà nỡ quên đi cốt nhục tình"? Mọi người cho rằng bài thơ này có ý bênh vực cho tội phạm Hồng Bảo, ám chỉ vua bất nhân bất nghĩa và suy đoán Nguyễn Hàm Ninh sẽ bị tống vào ngục nhưng vua đã không làm thế. Tuy không bị trách phạt gì, kể cả về sau này, nhưng Nguyễn Hàm Ninh cảm thấy sự đãi ngộ của vua với mình không còn như trước nên cáo về quê ở ẩn không lâu sau đó.
-
icon
Con cáo
-
icon
Con Hổ
-
icon
Con Sư tử
C là đáp án đúng. Khi thực dân Pháp mon men tiến vào bờ biển Việt Nam, Tự Đức rất lo lắng khi dân sống bình yên, không biết đánh trận, thù trong giặc ngoài quấy nhiễu. Vua cho rằng đó là sự trừng phạt nặng nề từ trời cao để cảnh cáo cả vua tôi, vì "ngu mà mong yên ổn, mờ tối không lo phòng bị từ khi việc chưa phát, tôi hay tướng giỏi cũng đã rơi rụng quá nửa, không ai nhắc nhở lời dạy của vua cha về việc đề phòng mặt biển đến giúp ta tránh khỏi chỗ lỗi lầm". Ông thốt lên: "Ai là người cũng gìn giữ bờ cõi ta, vỗ yên nhân dân ta? Bất đắc dĩ phải đánh dẹp, nhưng càng đánh dẹp càng loạn, mỏi mệt". Trăn trở tính chuyện giữ nước, những nhà nho lão thành, quan đại thần được sai đi bàn định điều ước. "Nhưng không hiểu vì lý do gì lại dễ dàng lập thành hòa nghị. Bỗng chốc đem cả nhân dân cùng đất đai của các triều nhọc nhằn gây dựng cho giặc hết...", Tự Đức đã phải "nuốt nước mắt, đành chịu tội với tôn miếu và nhân dân". Việc càng chồng chất, Tự Đức tự cho mình dùng người không sáng suốt, không xứng đáng, tình hình trong nước lại rối ren, tin chiến trường tới tấp, việc quan bộn bề, vua thêm gầy ốm, mang bệnh, không chăm lo chính sự được. Trăn trở vận nước, Tự Đức thốt lên: "Ta thực sự một mai chết đi thì tự thẹn trí khôn không bằng con cáo".
-
icon
Vua Tự Đức tự dựng
-
icon
Vua Dục Đức, con nuôi của Tự Đức
-
icon
Vua Hiệp Hòa, em khác mẹ của vua Tự Đức
B là đáp án đúng. Ngày 19/7/1883, giữa lúc cuộc xâm lược của người Pháp vào Việt Nam đang cam go, vua Tự Đức băng hà, hưởng thọ 54 tuổi. Vua được an táng ở Khiêm Lăng, phường Thủy Xuân (thành phố Huế). Trước đó năm 1871, vua Tự Đức đã tự dựng trong bia đình ở Khiêm Lăng một tấm bia đá rất lớn, trên khắc bài văn do chính mình soạn. Thông thường, con cái phải dựng bia cho cha nhưng vì Tự Đức không có con ruột nên ông tự dựng, cũng nhân đó mà thổ lộ với hậu thế nỗi niềm của mình. Tấm bia nặng đến 20 tấn, cao hơn 4 m, khắc 4.935 chữ Hán do chính tay vua Tự Đức viết, với tên gọi Khiêm cung ký. Bài văn bia với những lời thống thiết, nói lên nỗi lòng của một ông vua đầy lương tâm và trách nhiệm, nhưng đành bất lực trước những tình huống vượt ra ngoài khả năng của bản thân, thời đại và triều đại của ông. Bia Khiêm Lăng đã được công nhận bảo vật quốc gia.
Kết quả
Bạn hãy chăm chỉ hơn nhé!
điểm