Động lực của tôi là phụ nữ
Thưa giáo sư, nghiên cứu của bà tập trung vào ung thư vú và ung thư buồng trứng. Bà có thể chia sẻ rõ hơn về nghiên cứu của mình? Tại sao giáo sư lựa chọn hai hướng nghiên cứu này?
GS Mary Claire King: Có hai lý do tôi tập trung nghiên cứu về ung thư vú và ung thư buồng trứng. Hai lý do này hội tụ với nhau ở một điểm nào đó.
Đầu tiên, ung thư vú và ung thư buồng trứng có tầm quan trọng rất lớn đối với phụ nữ trên toàn thế giới, trong đó có cả người thân, bạn bè, chị em phụ nữ trong gia đình tôi.
Lý do thứ hai là thời Hy Lạp cổ đại, chúng ta có những nhà nghiên cứu ghi nhận những trường hợp gia đình có rất nhiều phụ nữ bị mắc ung thư vú qua nhiều thế hệ nhưng không giải thích được lý do. Điều đó khiến tôi tự hỏi rằng có phải do họ tiếp xúc với các yếu tố ngoại sinh trong môi trường, lối sống.
Tôi thấy rằng lý giải thích đó là không hợp lý, vì trong những gia đình này, tỷ lệ phụ nữ mắc ung thư vú cao bất thường. Từ đó, tôi mới đưa ra giả thuyết là nếu không phải do yếu tố môi trường thì chỉ có thể là do yếu tố gen di truyền mà thôi. Vì vậy, tôi nghĩ rằng nếu như tất cả phương án khác đều không phải, thì hãy thử với yếu tố di truyền học. Đó là lý do toàn bộ công trình nghiên cứu của tôi trong 50 năm trở lại đây đều xoay quanh chủ đề đó.
Là một chuyên gia đã dành hơn nửa thế kỷ để nghiên cứu về ung thư vú và ung thư buồng trứng, bà có lời khuyên nào dành cho những người phụ nữ hiện nay để hạn chế mắc phải hai căn bệnh này. Nếu không may mắc phải thì bước đầu phải làm những gì, thưa bà?
GS Mary Claire King: Tất cả chúng ta đều có nguy cơ mắc ung thư vú và ung thư buồng trứng. Đây là hai bệnh ung thư có thể khởi phát do nhiều lý do khác nhau. Với nhóm phụ nữ mà tôi trực tiếp nghiên cứu, nguyên nhân của bệnh đến từ trường các đột biến gen BRCA1 và BRCA2, cũng như là các gen chị em của hai gen này.
Với những trường hợp phụ nữ đang còn trẻ, khỏe, chưa khởi phát bất kì một ung thư nào, nhưng lại có chị em, có mẹ hoặc bà trong gia đình mắc ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng, tôi khuyến nghị là hãy đi xét nghiệm gen để xem có bị đột biến gen ở gen BRCA1, BRCA2 hoặc các gen chị em hay không.
Thật ra, xét nghiệm gen và phân tích gen rất phổ biến trên thế giới, được thực hiện với độ chính xác và chất lượng rất cao. Ở Việt Nam, việc phân tích và xét nghiệm gen này cũng được thực hiện với chất lượng rất tốt. Do đó tôi cũng khuyến nghị chúng ta nên đi sàng lọc xét nghiệm gen.
Đối với một nhà khoa học nữ thì theo bà đâu là điều khó khăn nhất để bà theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu khoa học? Đâu là động lực thôi thúc bà nghiên cứu khoa học hơn 50 năm qua đối với một lĩnh vực khó như ung thư vú và ung thư buồng trứng?
GS Mary Claire King: Câu này trả lời quá dễ. Động lực của tôi chính là phụ nữ.
Tôi được đọc một bài phỏng vấn rất thú vị, em trai bà, ông Paul King nói về bà, rằng là chị ấy thành công trong khoa học không phải chỉ vì niềm đam mê khoa học tự nhiên, mà vì tính nhân văn, bản năng phụ nữ của chị ấy. Bà có đồng tình với nhận định này không?
GS Mary Claire King: Em trai tôi nói vậy sao? Tôi không biết đấy. Tôi nghĩ mình có một chút đam mê tự nhiên dành cho khoa học, và cả việc tôi là phụ nữ nữa. Tôi cũng rất là biết ơn khi suốt chiều dài nghiên cứu của mình đã có cơ hội hợp tác với rất nhiều phụ nữ tham gia vào nghiên cứu của tôi. Nhưng bên cạnh đó thì cũng có tình yêu, niềm đam mê dành cho khoa học và khám phá khoa học.
Nhiều lần đến Việt Nam, hợp tác với Viện Nhi trung ương
Đây là lần thứ mấy giáo sư đến Việt Nam? Lần này bà sẽ mang gì đến Hà Nội, đặc biệt là ở Tuần lễ VinFuture? VinFuture hiện nay đã bước đến mùa thứ năm, giáo sư đánh giá như thế nào về giải thưởng này?
GS Mary Claire King: Đây có lẽ là lần thứ tư tôi đến Việt Nam.
Đối với tôi, Giải thưởng VinFuture cho thấy Việt Nam đang vươn lên như một trung tâm quốc tế trong việc ghi nhận những thành tựu khoa học phụng sự cho nhân loại trên toàn thế giới. Vì thế, việc được mời tham dự và trở thành một phần của cộng đồng này là một vinh dự vô cùng lớn đối với tôi, đặc biệt là với tư cách là một nhà khoa học đến từ Hoa Kỳ.
Bà từng ủng hộ biểu tình chống chiến tranh tại Việt Nam từ những năm 1970. Đó có phải là khởi đầu cho tình cảm của bà đối với Việt Nam và đã khiến cho bà đến Việt Nam nhiều lần trong thời gian qua?
GS Mary Claire King: Tôi cũng nghĩ rằng, sâu xa đâu đó thì tôi bị ấn tượng bởi sự kiên cường của con người Việt Nam. Và đó phải chăng cũng là lý do vì sao tôi rất yêu mến và quay trở lại Việt Nam nhiều lần.
Còn về nghiên cứu, thật khó để xác định chính xác vì sao người ta lại chọn một dự án nào đó. Với tôi, đó là sự kết hợp giữa tầm quan trọng của dự án hợp tác với các bác sĩ nhi khoa tại Bệnh viện Nhi Trung ương, và việc tôi biết rằng, cùng với Tiến sĩ Kathleen, chúng tôi có thể đạt được thành công.
Tôi cũng xin được giới thiệu người đồng nghiệp của tôi, Tiến sĩ Kathleen Leppig, người đã đến Việt Nam gần 20 lần để làm việc với các bác sĩ tại Bệnh viện Nhi Trung ương về các dị tật nặng ở trẻ em. Tôi rất vinh dự được hợp tác với Kathleen và các bác sĩ nhi của Bệnh viện Nhi Trung ương, để ngày nay chúng tôi có thể cung cấp cho các bậc cha mẹ những thông tin di truyền giúp họ có được một thai kỳ khỏe mạnh.
Xin cảm ơn Giáo sư!
Giáo sư Mary-Claire King là một nhà di truyền học tại Đại học Washington, thành phố Seattle, Hoa Kỳ. Bà sinh ra và lớn lên ở Chicago, nhận bằng Cử nhân Toán học tại Carleton College, bằng Tiến sĩ Di truyền học tại Đại học California, Berkeley, và hoàn thành chương trình nghiên cứu sau tiến sĩ tại Đại học California, San Francisco.
Bà từng là giáo sư tại Đại học California, Berkeley từ năm 1976 đến 1995 và giảng dạy tại Đại học Washington từ năm 1995 đến nay. Giáo sư King đã tham gia nhiều hội đồng và ủy ban nghiên cứu của Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ (NIH). Bà cũng từng là cố vấn cho Ủy ban về Người Mất Tích của Cộng hòa Argentina và thực hiện xét nghiệm ADN phục vụ điều tra cho các Tòa án Hình sự Quốc tế của Liên Hợp Quốc.
Bà từng là Chủ tịch Hiệp hội Di truyền Hoa Kỳ và là thành viên Hội đồng Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (NAS). Ngoài NAS, Giáo sư King còn là thành viên của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Khoa học Hoa Kỳ, Viện Hàn lâm Y học Quốc gia Hoa Kỳ, Hội Triết học Hoa Kỳ, và là thành viên nước ngoài của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp.
Các giải thưởng danh giá mà bà nhận được bao gồm: Giải thưởng Di truyền học của Quỹ Gruber, Giải thưởng Dan David (Israel), Giải thưởng Shaw (Hồng Kông), Giải thưởng Lasker cho Nghiên cứu Y học, và Huân chương Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ.
Thành tựu lớn nhất trong sự nghiệp của bà là việc xác định vị trí gene BRCA1 trên NST 17 vào năm 1990, mở đường cho xét nghiệm phát hiện đột biến giúp dự báo nguy cơ ung thư. Công trình của bà thay đổi hoàn toàn cách tiếp cận phòng ngừa – từ điều trị khi mắc sang sàng lọc chủ động, giúp hàng trăm nghìn phụ nữ trên thế giới phát hiện sớm và giảm tử vong do ung thư vú.