Tham gia Chương trình “Dạo bước Trung Quốc - Sức sống Hải Nam” (do Đài Phát thanh Truyền hình Trung ương Trung Quốc - CMG tổ chức cuối tháng 8/2025 tại tỉnh Hải Nam), ngoài ấn tượng với các thành tựu kinh tế, công nghệ, giáo dục… của Trung Quốc, trong lòng chúng tôi trào dâng cảm xúc đặc biệt trước các hình ảnh tình yêu đôi lứa nơi đây, cũng như trước những câu chuyện tình kinh điển do phóng viên ASEAN chia sẻ.
Ngày 20/8, chúng tôi đến điểm tham quan Làng Bali ở huyện Hưng Long để tìm hiểu về cộng đồng Hoa kiều, đặc biệt là văn hóa của Hoa kiều hồi hương từ nhiều nước Đông Nam Á như Indonesia, Việt Nam… Chất Đông Nam Á hiện ra rõ nét ở nơi này, cả về cảnh quan, phong cách, phong tục và phong vị.
Ái thần
Chưa đến cổng Làng Bali đã đập ngay vào mắt là phiên bản Cổng Trời Bali (đền Lempuyang trên đảo Bali của Indonesia). Ở Indonesia, Lempuyang gồm 7 khu, là một trong những ngôi đền cổ kính nhất, mang đậm dấu ấn tôn giáo đặc trưng của xứ vạn đảo; hằng ngày có những hàng dài du khách đến đây xếp hàng tận 3 tiếng để được tham quan, chụp ảnh Cổng Trời và ngọn núi Agung phía sau.
Phiên bản Cổng Trời Bali ở Hải Nam cũng thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách quốc tế tới chụp hình sống ảo. Nhưng tôi nhanh chóng bỏ qua vì thấy phía sau Cổng Trời là cặp tượng bán thân sừng sững có gạch đỏ xếp tên tiếng Trung là Ái thần (gần đó có từ tiếng Anh “Love” chia đôi).
Cô đơn bấy lâu, lần đầu chạm mặt cặp đôi Thần Tình yêu, tôi thấy mình thật may mắn, như “nắng hạn gặp mưa rào”. Bài thơ “Cửu hạn phùng cam vũ” của học giả Uông Thù (thế kỉ 12) vang lên trong đầu tôi: “Cửu hạn phùng cam vũ / Tha hương ngộ cố tri / Động phòng hoa chúc dạ / Kim bảng quải danh thì” (Nắng hạn gặp mưa tốt / Xa quê gặp bạn cũ / Đêm động phòng hoa chúc / Bảng vàng viết lên tên).
Rồi lại nhớ đến chùm 4 bài thơ Nôm vua Lê Thánh Tông (thế kỉ 15) sáng tác: “Đại hạn gặp mưa”, “Đất khách gặp bạn cũ”, “Đuốc hoa đêm động phòng”, “Khi bảng vàng đề tên”.
Tôi lật đật chạy tới, dang rộng vòng tay ôm lấy Ái thần, nhắm mắt khẩn cầu, kiểu như trong bài thơ “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp: “Ngun ngút khói hương vàng / Say trong giấc mơ màng / Em cầu xin Giời Phật / Sao cho em lấy chàng”. Mở mắt ra thấy có mấy nam thanh nữ tú nhìn mình chằm chằm, ý chừng “lâu thế, xê ra cho tôi cầu với”.
Tôi vội vàng nhường chỗ thì thấy tấm biển ghi tóm tắt nội dung sử thi “Ramayana” của Ấn Độ. Hoàng tử Rama bị lưu đày 14 năm khỏi vương quốc Ayodhya do âm mưu của mẹ kế, trong khi vợ ông là nàng Sita bị quỷ vương Ravana bắt cóc đưa về đảo Lanka. Với sự trợ giúp của em trai Lakshmana, thần khỉ Hanuman và đội quân khỉ, Rama vượt muôn trùng thử thách để chinh phục Lanka, tiêu diệt Ravana và giải cứu Sita.
Tuy nhiên, do Rama nghi ngờ sự trong sạch của Sita, nàng liền nhảy vào giàn lửa thiêu để chứng minh lòng chung thủy. Cuối cùng, Rama trở về Ayodhya lên ngôi vua bên cạnh Hoàng hậu Sita.
Đọc xong biển chú thích, tôi thầm nghĩ: Ủa, sao ở Bali đậm đặc văn hóa Indonesia (dù chỉ là phiên bản) lại dựng tượng nhân vật trong sử thi Ấn Độ?
Đem thắc mắc này hỏi một nhà báo Indonesia - anh Maryono Endro (công tác tại Bharata Online), anh hồn hậu cười bảo: “Đấu tranh và tình yêu mà, ở đâu mà chả có. Tình cảm giữa chàng Rama và nàng Shinta (viết hơi khác chút so với thiên sử thi đồ sộ “Ramayana”) là câu chuyện tình nổi tiếng nhất ở Java - một đảo nổi tiếng của Indonesia”. “Ramayana” cũng khá phổ biến ở Thái Lan, Campuchia và Malaysia.
Giao thoa
Anh Endro nhận định, do có sự giao thoa, tiếp biến văn hóa giữa Ấn Độ và Indonesia nên “Rama và Shinta” có nội dung tương tự, chỉ có một số khác biệt nhỏ. Ví dụ, câu chuyện bắt đầu khi Hoàng tử Rama đa tài tham gia một cuộc thi ở vương quốc láng giềng, dễ dàng giành chiến thắng và mang về giải thưởng là Công chúa Shinta.
Khi đôi uyên ương bị đày vào rừng, một gã khổng lồ tên là Rahwana (còn gọi là Dasamuka) si mê đắm đuối sắc đẹp của Shinta, nên bắt cóc, đưa nàng về lãnh địa của mình…
Anh Endro nói rằng, đông đảo người Indonesia còn rất ấn tượng với một câu chuyện tình khác, thuần Indonesia, vừa kinh điển vừa mang hơi thở thời đại. Đó là tiểu thuyết “Siti Nurbaya” của nhà văn Indonesia Marah Rusli - cha đẻ của tiểu thuyết Indonesia hiện đại (tác phẩm của ông được giảng dạy trong trường trung học phổ thông, và gần đây được chuyển thể thành phim ca nhạc cùng tên dài 6 tập, phát sóng trên YouTube).
Câu chuyện bắt đầu vào năm 1970 với bối cảnh thành phố Jakarta (trong tiểu thuyết, bối cảnh là tỉnh Tây Sumatra - và ngày nay tỉnh này có cây cầu mang tên Siti Nurbaya).
Có một chủ báo Cakrawala tên là Sultan Sulaiman sống cùng con gái Siti Nurbaya. Ông cảm thấy bất an trước sự ra đời của một hộp đêm tên là Taman Edan. Theo ông, sự tồn tại của nó gây tổn hại rất lớn đến đạo đức của những người theo đạo.
Những bài báo Sulaiman viết đã làm giảm lượng khách đến Taman Edan; tất nhiên, điều này khiến chủ hộp đêm Meringgih tức giận, nghĩ ra mưu hèn kế bẩn (dùng tiền và gái hối lộ quan tòa) để tống ông vào tù. Sau đó, Meringgih bảo Nurbaya rằng hắn sẽ dùng tiền và quan hệ để cứu Sulaiman khỏi cảnh bị giam cầm (trong tiểu thuyết, ông lâm cảnh nợ nần) nếu cô đồng ý lấy hắn.
Dù đang yêu Samsul Bahri tha thiết, nhưng nóng lòng cứu người cha ốm yếu chốn lao tù, cô nuốt nước mắt vào trong, nhận lời lên xe hoa với Meringgih.
Bất chấp việc bị chồng và các quy tắc văn hóa hà khắc giam hãm, kìm kẹp phụ nữ, Nurbaya muốn trở thành nhà báo như cha mình, viết về số phận của những con người thấp cổ bé họng, bảo vệ công lý và đạo đức. Cô say mê đọc sách, tiến bộ từng ngày, nhờ đó hỗ trợ Bahri học luật ở Hà Lan.
Sau khi được người vợ đầu của Meringgih nói về chân tướng thật sự của hắn, Nurbaya nhận ra Meringgih chính là thủ phạm, là nguồn cơn của mọi vấn đề. Bahri hoàn thành việc học ở Hà Lan, trở về Jakarta, sẵn sàng giúp Nurbaya vạch tội Meringgih. Meringgih ra lệnh cho đàn em giết Nurbaya.
Tại tòa, Meringgih phủ nhận mọi hành vi hắn, nhưng vợ cũ và tay sai đồng ý làm chứng chống lại hắn. Bất lực, tuyệt vọng, Meringgih tự sát (trong tiểu thuyết, Bahri trở thành sĩ quan quân đội Hà Lan và trong một trận chiến, anh giết Meringgih, nhưng sau đó tử thương).
“Tại sao lại là Hà Lan?”. Anh Endro giải thích, ngoài chủ đề phê bình xã hội, xung đột giữa truyền thống và hiện đại, chủ nghĩa tư bản, tiểu thuyết kinh điển “Siti Nurbaya” cũng đề cập đến những tác động rộng hơn của chủ nghĩa thực dân Hà Lan (Hà Lan cai trị Indonesia từ đầu thế kỷ 17 đến năm 1949).
Không kém cạnh, chị Bartolome Maria Lourdes, phóng viên Philippines của Business Mirror, cũng kể một chuyện tình đình đám được nêu trong “Florante và Laura” mà nhà văn Philippines kiệt xuất Francisco Balagtas viết vào giữa thế kỷ 19. Đây là một bài thơ tự sự kinh điển, kể về Florante - con trai của một công tước ở xứ Albania yêu sâu đậm Laura - con gái xinh đẹp của vua Linceo. Thế nhưng tình yêu của họ phải trải qua nhiều thử thách bởi sự phản bội, ghen tuông, biến động chính trị…
“Câu chuyện mở đầu rất ấn tượng, rất hiện đại với hình ảnh Florante bị trói vào một gốc cây trong khu rừng tối tăm, đầy thú dữ, bị bỏ mặc cho chết rục. Giữa cảnh nguy nan, chàng than thở cho số phận cay đắng của mình, đau đớn cùng cực nhất là bị chia cắt với người yêu Laura”, chị Lourdes kể.
Adolfo, đối thủ từ thuở nhỏ của Florante, cũng khao khát có được Laura và âm mưu hãm hại anh. Dù bị chia cắt và đối mặt với hiểm nguy, Florante và Laura vẫn thủy chung son sắt với nhau.
Nhờ sự giúp đỡ của những đồng minh bất ngờ, đặc biệt là hoàng tử Ba Tư Aladin cũng đang chịu cảnh tình yêu bị chia cắt, tình yêu bền chặt của hai đôi uyên ương chiến thắng mọi âm mưu và gian khổ, trở thành biểu tượng của lòng trung thành, sự kiên định và hy vọng giữa đau thương.
Nghe vậy, tôi nói chen vào, rằng mối tình sâu đậm trong truyền thuyết, cổ tích Việt Nam cũng thường có điểm chung là bối cảnh triều đình, hoàng gia, như “Mỵ Châu-Trọng Thủy”, “Sơn Tinh-Thủy Tinh”, “Tiên Dung-Chử Đồng Tử”…
Nhưng cũng có những câu chuyện cảm động về dân thường gắn với lý giải nguồn gốc phong tục như “Sự tích trầu cau”, nêu bật tình nghĩa anh em, vợ chồng, đồng thời giải thích tục ăn trầu của người Việt (nay đã nhạt phai, nhưng trên đường phố Hải Nam hiện nay chúng tôi vẫn thấy bày bán nhiều quả cau).
Cô Thanh Đóa, phóng viên Đài Phát thanh quốc tế Trung Quốc (CRI), nói bằng tiếng Việt lưu loát như người Việt rằng, hồi học đại học, cô được học “Sơn Tinh-Thủy Tinh” về việc kén rể, thách cưới, ghen tuông, ghen tức, đồng thời lý giải hiện tượng thiên nhiên (ngập lụt hằng năm).
Cô cho biết, bốn truyền thuyết lớn của Trung Quốc cũng đề cập những mối tình sâu nặng, phản ánh nhiều giá trị văn hóa, tâm linh của người Trung Quốc. Đó là “Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài”, “Bạch Xà truyện” (còn được gọi là “Bạch Nương Tử và Hứa Tiên”), “Mạnh Khương Nữ” và “Ngưu Lang-Chức Nữ”. “Ngưu Lang-Chức Nữ” đã trở thành nguồn cảm hứng cho Lễ Thất tịch (ngày 7/7 âm lịch), còn được gọi là ngày Lễ Tình nhân Trung Quốc.
Nguyệt lão
Ngày 21/8, chúng tôi tới khu du lịch Đảo Phân giới (nằm ở ranh giới hành chính giữa huyện Lăng Thủy và thành phố Vạn Ninh). Đông đảo người dân Trung Quốc và du khách quốc tế hào hứng chơi ván đứng nước phản lực (flyboard) bay lượn trên mặt biển, chơi dù lượn tự do, ngồi trực thăng bay vè vè, lái xe địa hình chạy ầm ầm trên bãi cát, bơi cùng cá đuối khổng lồ…
Tâm hồn mong manh, dễ vỡ, sợ cảm giác mạnh, tôi rảo bước về phía chân núi thấp, để rồi mắt sáng rỡ khi nhìn thấy tượng một ông lão cầm sợi chỉ đỏ. Phía bên phải ông lão (theo hướng ông nhìn) là hình hai trái tim và từ “sơn minh”, phía bên trái cũng là hình hai trái tim và từ “hải thệ”, ghép thành thành ngữ “sơn minh hải thệ” mà tiếng Việt thường dịch là “thề non hẹn biển”, ý nói đôi trai gái yêu nhau, thề thốt không bao giờ phụ bạc nhau, có núi có biển làm chứng lời thề.
Ông lão mở đôi mắt hiền từ kiểu “từ nhãn thị chúng sinh” (mắt thương nhìn mọi người), hướng về phía đối diện là tảng đá lớn khoét lõm thành hai chiếc ghế cạnh nhau. Tôi muốn ngồi vào chiếc ghế, nhưng không biết sẽ ngồi cạnh để được ông lão mà giờ đây tôi đã nhận ra chính là Nguyệt lão (Nguyệt hạ lão nhân).
Ông là vị thần mai mối trên Mặt trăng, phụ trách hôn nhân của con người nơi hạ giới. Ông cầm sợi chỉ đỏ nhân duyên, sợi tơ hồng định mệnh để buộc vào cổ chân, ngón tay cái, hoặc ngón tay út của người nam và người nữ (tùy theo văn hóa Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…). Nếu được Nguyệt lão kết nối sợi tơ hồng co giãn không bao giờ bị đứt, hai người mãi mãi yêu nhau…
Chuyện 3 người Trong Làng Bali còn có bức tượng cô gái đẹp tai cài hoa sứ (hoa đại) với tấm biển chú thích bằng tiếng Trung và tiếng Anh. Chuyện kể rằng, đời xưa đời cũ kỹ, con gái của quỷ sứ phải lòng hoàng tử nhưng hoàng tử lại mê đắm thiên thần. Con gái quỷ dữ cắn răng chịu mọi đau đớn để cưa đi sừng quỷ của mình và biến thành đôi cánh thiên thần. Để giấu danh tính thật của mình, con gái quỷ sứ biến thanh gươm của hoàng tử thành mũi tên và đâm vào ngực mình. Hoàng tử ôm con gái quỷ sứ và thốt lên: “Nàng mới là thiên thần của ta”.