Mặc dù có một vài thành công trong giai đoạn đầu Thế chiến II, nhưng Lực lượng tăng, thiết giáp của Nhật Bản đã bị xe tăng Đồng minh vượt mặt ngay khi chúng vào trận với số lượng lớn.
Những kinh nghiệm đó và mối đe dọa về một cuộc tấn công của Liên Xô trước đây đã khiến người Nhật phải nỗ lực nhiều hơn vào các thiết kế xe tăng thời hậu chiến. Đến những năm 1990, Nhật Bản có một lực lượng thiết giáp lớn và có năng lực.
Nhưng Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JSDF) đã phải hiệu chỉnh lại Lực lượng tăng, thiết giáp trong những thập kỷ gần đây.
Mối đe dọa từ Trung Quốc đang trỗi dậy đã buộc Lực lượng Phòng vệ Mặt đất (GSDF) của Nhật Bản phải chuyển đổi nhiều đơn vị thiết giáp và pháo binh đóng ở phía bắc - nơi mà lực lượng này có nhiệm vụ đáp trả cuộc tấn công tiềm tàng của Nga - sang một lực lượng cơ động hơn và có khả năng nhanh chóng triển khai đến Tây Nam đất nước.
Để làm được điều này, JSDF đang thực hiện một số thay đổi, bao gồm việc đầu tư mạnh mẽ vào khả năng vận chuyển, thiết kế xe bọc thép mới và cải tổ vũ khí trang bị xe tăng.
Lực lượng xe tăng của Nhật Bản thực sự khá hiện đại và đổi mới trong quá trình phát triển giữa các cuộc chiến tranh thế giới. Nhưng trong khi Đức và Đồng minh có năng lực công nghiệp để cập nhật hoặc chế tạo xe tăng mới trong Thế chiến thứ hai, thì ngành công nghiệp của Nhật Bản tương đối bị hạn chế.
Hơn nữa, vì kế hoạch của Nhật Bản trong Thế chiến 2 liên quan đến việc dồn quân xuống phía nam, những khu vực khó xảy ra các trận đánh xe tăng lớn do địa hình, nên hầu hết kinh phí và nguồn lực đều dành cho hải quân và không quân.
Sau chiến tranh, Nhật Bản - hiện đã tiếp cận với công nghệ và thiết kế của phương Tây cũng như nhận thức được tầm quan trọng của xe tăng - đã tập trung nhiều hơn vào việc phát triển một lực lượng thiết giáp có khả năng chống lại Liên Xô.
Trong phần lớn thời kỳ Chiến tranh Lạnh, lực lượng xe tăng của Nhật Bản bao gồm các xe tăng chiến đấu chủ lực Type 61 và Type 74, được trang bị pháo 90 mm và 105 mm. Cả hai đều là những thiết kế có khả năng vào thời của chúng và đã được đưa vào sử dụng với số lượng lớn.
Vào năm 1990, GSDF đã giới thiệu Type 90. Với trọng lượng 50 tấn và trang bị pháo 120 mm, nó được coi là một chiếc xe tăng hạng nhất. Được trang bị giáp composite mô-đun, máy đo xa laser, máy tính điều khiển hỏa lực, hệ thống quan sát ảnh nhiệt và nhìn đêm, nạp đạn tự động, nó tương tự như xe tăng Leopard 2A4 của Đức.
Người Nhật tin rằng Hokkaido, cực bắc, nơi gần nhất với lãnh thổ Liên Xô, sẽ là tiền tuyến của bất kỳ cuộc xâm lược nào, và hầu hết các xe tăng của Nhật đều đóng ở đó.
Đến năm 1976, GSDF có khoảng 1.200 xe tăng và khoảng 1.000 khẩu pháo, chủ yếu ở Hokkaido, nơi phần lớn lực lượng thiết giáp đóng quân.
Sau Chiến tranh Lạnh, khi Liên Xô sụp đổ, JSDF quyết định cắt giảm tổng số xe tăng, từ khoảng 900 chiếc năm 1995 xuống còn khoảng 570 chiếc hiện nay.
JSDF có kế hoạch giảm tổng số xuống còn 300 trong những năm tới.
Nhưng GSDF tiếp tục mua xe Type 90 để thay thế các Type 61 và Type 74 cũ hơn, và Nhật Bản đã tiếp tục phát triển các loại xe bọc thép mới, thay thế cho xe tăng chiến đấu chủ lực Type 10 và Xe chiến đấu cơ động Type 16 trong thập kỷ qua.
Được giới thiệu vào năm 2012, Type 10 được dùng để thay thế Type 74 và bổ trợ cho Type 90.
Với trọng lượng đầy tải 48 tấn, Type 10 nhẹ hơn và cơ động hơn so với Type 90. Trong khi kích thước của Type 90 khiến nó bị hạn chế hoạt động ở Hokkaido và xung quanh núi Phú Sĩ, Type 10 có thể hoạt động ở bất cứ đâu mà luật pháp Nhật Bản cho phép.
Type 10 có giáp composite gốm mô-đun với thép tinh thể nano. Các mô-đun có thể được thêm hoặc bớt tùy thuộc vào nhiệm vụ hoặc thiệt hại. Nó có một khẩu pháo 120 mm và một bộ nạp đạn tự động.