Google News

Người mắc bệnh này ở mắt nếu dùng thuốc chống đông phải báo ngay cho bác sĩ

TPO - Bệnh Glôcôm là bệnh lý gây mù loà đứng thứ 2 ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Đây là nhóm bệnh gây tổn thương dây thần kinh thị giác kéo dài do tình trạng tăng nhãn áp trong nhãn cầu, có thể dẫn đến mất thị lực vĩnh viễn nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.

Với bệnh nhân có sử dụng thuốc chống đông, việc theo dõi điều trị và chăm sóc rất phức tạp và khó khăn.

benh-vien-mat-binh-duong-5-min.png
Bệnh Glôcôm thường tiến triển âm thầm, không có triệu chứng rõ ràng ở giai đoạn đầu. Nhiều bệnh nhân chỉ phát hiện bệnh khi thị lực đã bị suy giảm nghiêm trọng. Đây là điều đáng lo ngại trong việc chẩn đoán, phát hiện bệnh sớm. Ảnh minh họa: Internet

Bệnh Glôcôm thường tiến triển âm thầm, không có triệu chứng rõ ràng ở giai đoạn đầu. Nhiều bệnh nhân chỉ phát hiện bệnh khi thị lực đã bị suy giảm nghiêm trọng. Đây là điều đáng lo ngại trong việc chẩn đoán, phát hiện bệnh sớm.

Phác đồ điều trị bệnh Glôcôm trên những bệnh nhân có sử dụng thuốc chống đông như bệnh lý tim mạch, đột quỵ, tai biến mạch não, nhồi máu não, đặt stent mạch vành, thay van tim… cần phải lựa chọn nhóm thuốc phù hợp với bệnh toàn thân hay hiệu chỉnh liều thuốc chống đông nếu bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật mắt. Do đó, việc theo dõi điều trị và chăm sóc với bệnh nhân sử dụng thuốc chống đông càng phức tạp, khó khăn hơn rất nhiều.

Bệnh nhân nữ 78 tuổi (Nam Định), tiền sử tiểu đường, cao huyết áp, mỡ máu 6 năm nay. Bệnh nhân nhập viện do nhồi máu cơ tim, tắc động mạch vành. Sau khi đặt stent mạch vành được hơn một tuần, xuất hiện tình trạng đau nhức, sưng đỏ mắt, nhìn mờ tăng nhanh, kèm theo đau đầu và nôn, thị lực giảm trầm trọng.

Bệnh nhân được chuyển đến Khoa Mắt Bệnh viện Bạch Mai để điều trị. Sau hai ngày điều trị, bệnh nhân đã đỡ đau nhức mắt, nhức đầu, thị lực phục hồi một phần, người bệnh nhìn sáng hơn. Tuy nhiên, để điều trị dứt điểm bệnh nhân phải tiến hành phẫu thuật.

Điều đáng nói, bệnh nhân có nhiều bệnh lý nền và đang sử dụng thuốc chống đông máu nên việc phẫu thuật phải tính toán, xem xét rất kỹ lưỡng. Đặc biệt với trường hợp này, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các bác sĩ chuyên khoa trong việc điều chỉnh thuốc chống đông cũng như sắp xếp thời gian tiến hành phẫu thuật ngay khi bệnh nhân xét nghiệm lại chỉ số đông máu cho phép phẫu thuật. Việc điều chỉnh thuốc chống đông và theo dõi toàn trạng khoảng 5 ngày trước phẫu thuật.

Cũng giống bệnh nhân trên, bệnh nhân nữ 75 tuổi (Hoà Bình), tiền sử tai biến mạch máu não, đau đầu nôn, sụp mi, mắt mờ không nhìn thấy. Bệnh nhân vào điều trị tại Khoa Mắt một thời gian, thị lực được cải thiện, nhưng chưa thể tiến hành phẫu thuật ngay khi nhãn áp điều chỉnh do bệnh nhân cũng đang sử dụng thuốc chống đông máu.

BSCKII Phùng Thị Thuý Hằng, cho biết: Với các bệnh nhân bị Glôcôm phẫu thuật là chỉ định thường quy, nhưng trên bệnh nhân sử dụng thuốc chống đông máu, nguy cơ chảy máu khi phẫu thuật sẽ gây mất thị lực chinh vì thế cần có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa các bác sĩ chuyên khoa, trước khi phẫu thuật cần phải điều chỉnh thuốc chống đông. Trong khi phẫu thuật cũng như hậu phẫu người bệnh cần được theo dõi sát.

Thực tế, so với bệnh nhân bình thường, bệnh nhân sử dụng thuốc chống đông máu, bệnh nhân đồng mắc nhiều bệnh nền 1 lúc khó khăn hơn rất nhiều trong điều trị bệnh Glôcôm”, bác sĩ Hằng chia sẻ.

Các bác sĩ Khoa Mắt cũng khuyến cáo, người bệnh cần định kỳ kiểm tra mắt để phát hiện bệnh sớm. Khi nghi ngờ bị Glôcôm, bệnh nhân cần đến thăm khám sớm và cố gắng mang theo tất cả những giấy tờ, tài liệu có liên quan đến sử dụng thuốc chống đông máu để cung cấp cho bác sĩ. Tuân thủ thuốc và lời dặn của bác sĩ tránh các biến chứng do sử dụng thuốc chống đông sai chỉ định, sai thời điểm, liều dùng dẫn đến nguy cơ chảy máu, giảm thị lực/mù. Tuân thủ nghiêm ngặt việc tái khám định kỳ.

Dấu hiệu khi mắc bệnh Glôcôm

Với mỗi thể bệnh, bệnh nhân sẽ có những triệu chứng khác nhau:

Glôcôm góc đóng cơn cấp điển hình: các triệu chứng xuất hiện đột ngột, dữ dội:

  • Mắt đau nhức đột ngột, dữ dội, đau lan lên đỉnh đầu.
  • Nhãn cầu căng cứng như hòn bi.
  • Mắt đỏ, mi nề, chảy nước mắt, sợ ánh sáng.
  • Thị lực bệnh nhân giảm nhanh thậm chí mất hẳn, nhìn mờ như qua màn sương, nhìn vào các vật phát sáng thấy có quầng xanh đỏ.
  • Những dấu hiệu toàn thân có thể có: đau bụng, nôn, buồn nôn, ỉa chảy, vã mồ hôi.... khiến người bệnh lầm t­ưởng là cảm sốt, chủ quan tự chữa trị, khi tới viện thì đã mù hoàn toàn.

Glôcôm góc đóng bán cấp: Các triệu chứng giống như glocom góc đóng cơn cấp, nhưng ít dữ dội hơn, thỉnh thoảng xuất hiện những cơn đau nhức mắt, nhức đầu thoáng qua kèm nhìn mờ, qua cơn thị lực trở lại bình thường, nhưng tần suất, mức độ các cơn tăng dần, đồng thời thị lực ngày càng giảm.

Glôcôm góc đóng mạn tính: Rất ít gặp, thường không có triệu chứng, đa số bệnh nhân khi đến khám thị lực đã giảm nặng hoặc mất hoàn toàn.

Glôcôm góc mở: Bệnh âm thầm tiến triển mạn tính, lần lượt qua từng giai đoạn, người bệnh không nhận thấy sự giảm sút thị lực, do đó thường đến khám ở giai đoạn muộn khi bệnh đã nặng. Đa số bệnh nhân không đau nhức mắt hay đau nhức đầu, một số có cảm giác nặng, căng tức mắt thoáng qua, nhìn mờ như qua màn sương, nhìn vật phát sáng thấy có quầng xanh đỏ, các biểu hiện xuất hiện thành từng cơn ngắn rồi tự hết, khiến bệnh nhân chủ quan không đi khám.

Nguyên nhân gây bệnh Glôcôm

Nguyên nhân nguyên phát

Bệnh Glôcôm có thể hình thành do nguyên nhân nguyên phát. Glôcôm nguyên phát ở nhiều trường hợp không có bất kỳ triệu chứng nào cho đến khi thị lực bị mất dần. Bệnh hình thành do áp lực tích tụ trong mắt mà không rõ nguyên nhân. Nếu chất lỏng trong mắt không thoát đủ nhanh, nó sẽ tạo ra áp lực đè lên dây thần kinh thị giác ở phía sau mắt. Theo thời gian, áp lực sẽ làm tổn thương dây thần kinh thị giác, ảnh hưởng đến thị lực. Cuối cùng, điều này có thể dẫn đến mù lòa.

Nguyên nhân thứ phát

Có rất nhiều trường hợp bệnh Glôcôm là do tình trạng bệnh lý khác gây ra và được gọi Glôcôm thứ phát. Một số tình trạng bệnh lý gây tăng nhãn áp thứ phát như:

  • Bệnh Glôcôm tân mạch: Trong một số bệnh lý gây thiếu máu nhãn cầu, phản ứng đáp ứng của cơ thể sẽ tạo ra một số mạch máu mới nhằm khắc phục tình trạng này. Tuy nhiên các mạch máu mới sinh (tân mạch) thường có cấu trúc không hoàn chỉnh và xuất hiện bất thường.
  • Một số trường hợp các tân mạch xuất hiện tại khu vực thoát lưu thủy dịch (chất dịch trong nhãn cầu) gây cản trở quá trình lưu thông, làm ứ đọng thủy dịch trong nhãn cầu, dẫn đến tăng nhãn áp. Các bệnh có thể gây tình trạng tăng sinh tân mạch dẫn đến glocom thứ phát thường gặp là tắc tĩnh mạch trung tâm võng mạc, bệnh võng mạc do đái tháo đường, bệnh võng mạc cao huyết áp,…
  • Bệnh Glôcôm sắc tố: Bệnh xảy ra khi sắc tố mống mắt bong ra ồ ạt gây tắc nghẽn vùng lưới bè – nơi thoát ra ngoài nhãn cầu của thủy dịch dẫn đến tình trạng tăng nhãn áp.
  • Glôcôm giả tróc bao: đây là một loại bệnh glaucoma góc mở xảy ra ở một số người mắc hội chứng giả bong bao, một tình trạng lắng đọng các chất albumin trên các thành phần của mắt, trong đó có vùng bè khiến khả năng thoát lưu thủy dịch bị suy giảm dẫn đến ứ đọng thủy dịch trong nhãn cầu.
  • Bệnh Glôcôm màng bồ đào: bệnh có thể xảy ra ở những người bị viêm màng bồ đào – một tình trạng gây sưng và viêm ở mắt. Khoảng 2 trong 10 người bị viêm màng bồ đào sẽ phát triển bệnh glôcôm màng bồ đào. Viêm màng bồ đào có thể gây viêm và xơ hóa vùng lưới bè làm cản trở quá trình thoát lưu thủy dịch, dẫn đến bệnh glocom màng bồ đào, mất thị lực.