Để phù hợp làm du lịch, các hộ dân đã sửa sang, làm thêm vệ sinh khép kín, tiện cho du khách đến ăn nghỉ, sinh hoạt, nhưng không làm ảnh hưởng đến kiến trúc bên ngoài và tổng thể. Hiện nay, hơn 1/3 số hộ dân ở Lô Lô Chải đã chuyển sang làm du lịch, thường xuyên đón khách nghỉ lại qua đêm trong các homestay với dịch vụ theo chuẩn 3 sao du lịch cộng đồng OCOP. Trước thời điểm dịch Covid-19 bùng phát, trung bình mỗi tháng, Lô Lô Chải đón hơn 1.000 lượt khách lưu trú, đặc biệt vào mùa hoa tam giác mạch, nơi đây gần như “cháy” phòng.
Du khách đến Lô Lô Chải giờ chỉ cần chiếc điện thoại để tìm phòng, đặt tour, xem dịch vụ ẩm thực hoặc văn hóa bản địa. Tất cả đã được số hóa, thông tin hiển thị mạch lạc chỉ sau vài thao tác chạm. Đặt phòng qua ứng dụng, thanh toán bằng QR, xem gợi ý trải nghiệm bản địa cũng từ điện thoại. Việc giao tiếp giữa khách và những người làm dịch vụ ở vùng cao vốn phức tạp vì ngôn ngữ, giờ trở nên gọn nhẹ theo đúng nghĩa đen: chỉ cần một cái quét mã.
Người dân trong bản, vốn chỉ quen với nương bắp và tiếng khèn, được Tổ công nghệ số cộng đồng hỗ trợ quay video quảng bá, đăng tải hình ảnh lên Facebook, Zalo, Youtube, Tiktok. Sản phẩm bản địa được bán dễ hơn, du khách mua hàng bằng QR tiện lợi hơn, thu nhập cải thiện rõ rệt theo chia sẻ từ thôn. Ông Giàng Mí Mua, Phó Chủ tịch UBND xã Lũng Cú, cho biết xã đã thành lập tổ chuyển đổi số cộng đồng tại 37/37 thôn; riêng Lô Lô Chải là thôn du lịch nên triển khai mạnh mẽ hơn. Sự chủ động của người dân tạo ra một mô hình phát triển không còn lệ thuộc vào trung gian truyền thông hay công ty lữ hành.
Theo quan điểm của chuyên gia kinh tế du lịch TS. Trần Văn Mạnh, Lô Lô Chải đang cho thấy một mô hình đáng chú ý: du lịch cộng đồng hoàn toàn có thể vận hành chủ động nếu hạ tầng số được trao vào tay chính người dân. Việc từng hộ gia đình biết quay video giới thiệu homestay, niêm yết giá dịch vụ rõ ràng, nhận đặt phòng và thanh toán qua QR khiến vai trò kinh tế trong bản được phân bổ lại theo hướng bình đẳng hơn. Bản làng lúc này được vận hành như một hệ sinh thái du lịch mở, ở đó người dân vừa sản xuất dịch vụ, vừa truyền thông, vừa trực tiếp nhận lợi ích kinh tế. Mô hình này có tính bền vững cao hơn so với cách làm truyền thống vốn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp lữ hành bên ngoài, bởi giá trị tạo ra nằm lại trong cộng đồng thay vì bị phân chia theo chuỗi trung gian.
Thực tế cho thấy, một bản đẹp, giàu truyền thống nhưng thiếu nội dung trực tuyến rất dễ bị bỏ quên, trong khi một địa phương bình thường nhưng biết kể chuyện qua video ngắn, gắn định vị thương hiệu và tối ưu trải nghiệm số lại có thể vươn lên nhanh chóng. “Công nghệ có tác dụng mở đường, nhưng bản sắc mới tạo chiều sâu”, TS Trần Văn Mạnh phân tích. “Nếu địa phương chạy theo hình ảnh bắt mắt mà thiếu các câu chuyện văn hoá, mô hình sẽ sớm thoái trào. Chuyển đổi số vì thế cần song hành hai vế: hiện diện mạnh trên nền tảng số và giữ được trải nghiệm độc nhất mà chỉ địa phương đó có thể mang lại”, ông Mạnh nói thêm.
Lô Lô Chải vốn đã hội tụ đủ yếu tố để trở thành một điểm đến đặc biệt: nằm dưới chân cột cờ Lũng Cú, giữa không gian cao nguyên đá Đồng Văn hùng vĩ, thôn có khoảng 120 hộ thì 56 hộ làm du lịch, phần lớn nhà trình tường cổ vài chục đến hơn 200 năm tuổi, từ năm 2011 đã bắt đầu đón khách homestay và đến năm 2025 được UN Tourism vinh danh là Làng du lịch tốt nhất thế giới. Nhưng để vẻ đẹp ấy trở thành sinh kế, không thể không nhắc đến dấu ấn của ông Yasushi Ogura, người đàn ông Nhật sinh năm 1957 tại Tokyo, được bà con thân thiết gọi là “ông già Nhật”.
Từ năm 2002, ông đều đặn bay từ Tokyo sang Nội Bài rồi đi xe khách, xe ôm lên Lô Lô Chải hầu như mỗi tháng, nhiều lần ở hai tuần liền để lang thang khắp bản, tìm hiểu phong tục, kết bạn với người dân và âm thầm nghĩ cách giúp họ làm du lịch một cách tử tế.
Đầu năm 2015, ông góp 200 triệu đồng vốn mở cà phê Cực Bắc, ở hẳn một tuần để dạy chủ quán những câu giao tiếp tiếng Anh cơ bản, cách pha cà phê, trà, phục vụ bàn, rồi giao lại toàn bộ việc kinh doanh cho gia đình người Lô Lô tự vận hành. Quán nhỏ chính là ngôi nhà hơn 200 tuổi, cổ nhất thôn, nhanh chóng trở thành chỗ dừng chân quen thuộc trên đường lên cột cờ, giúp chủ nhà có thu nhập ổn định, đủ cho con cái học đại học ở Hà Nội, đồng thời kéo khách vào sâu hơn với đời sống bản địa. Cũng chính ông Yasushi Ogura đã kiên trì vận động giữ kiến trúc nhà trình tường, hàng rào đá, không phá bỏ xây mới vô tội vạ, luôn nhắc bà con rằng chính nếp nhà, nếp sống ấy là thứ khách tìm đến và là thứ phải được trân trọng đầu tiên khi nói về một Lô Lô Chải “đổi đời” nhờ du lịch.
Ông Giàng Mí Mua, Phó Chủ tịch UBND xã Lũng Cú cho biết, Lô Lô Chải có 140 hộ dân, chủ yếu là người Lô Lô đen. Từ năm 2011 trở về trước cuộc sống của người dân ở đây vô cùng khó khăn bởi thu nhập chỉ biết dựa vào cây ngô, cây lúa, nhưng diện tích lúa không nhiều. Từ khi làm du lịch, đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, nhận thức được nâng cao. Bây giờ, hầu như gia đình nào cũng có ti vi, tủ lạnh và xe máy đi lại, đặc biệt, hầu như ai cũng biết giao tiếp tiếng Anh thông dụng. Đặc biệt, từ khi có quán Cafe Cực Bắc thì thôn Lô Lô trở thành điểm du lịch ấn tượng thực sự đối với du khách.
Nếu như việc áp dụng chuyển đổi số đã đem đến một lượng khách ổn định cho Lô Lô Chải thì yếu tố giữ chân và kéo họ quay lại chính là những giá trị văn hóa nguyên bản vẫn được cộng đồng gìn giữ trọn vẹn. Nếu có mặt tại bản vào ngày 25 tháng Bảy âm lịch, bạn sẽ bắt gặp Tết tháng Bảy, lễ quan trọng nhất của người Lô Lô Đen. Khi mùa màng tạm dừng, cả cộng đồng khoác lên những bộ trang phục rực rỡ, quây quần bên không gian nghi ngút khói hương để cúng tổ tiên. Tiếng trống, tiếng khèn, điệu múa truyền thống hòa quyện vào không khí linh thiêng, tạo nên một lễ hội mang đậm tinh thần đoàn kết, để du khách có thể chạm vào đời sống tín ngưỡng và nhịp văn hóa lâu đời của cư dân biên cương.
Trong văn hóa tang ma, người Lô Lô còn lưu giữ một nghi thức đặc biệt: lễ múa ma hay còn gọi là múa người rừng. Khi gia đình có người mất, những chàng trai chưa lập gia đình được mời vào rừng hóa trang bằng lá cây, che kín toàn thân, chỉ để lộ đôi mắt. Người Lô Lô tin rằng tổ tiên xưa từng ăn vận như vậy nên việc hóa trang là sự kết nối với thế giới bên kia, giúp linh hồn người đã khuất được nhận biết và dẫn về với tổ tiên. Nghi lễ diễn ra trong tiếng trống đồng dồn dập, các động tác mô phỏng từng công đoạn sản xuất nông nghiệp: cấy lúa, trồng ngô, bẻ ngô, giã gạo, trồng lanh, dệt vải. Những chuyển động giàu tính biểu tượng ấy vừa thể hiện sự biết ơn mùa màng, vừa là cách cộng đồng tái hiện lịch sử sinh tồn trên vùng núi đá.
Giữa những giá trị ấy, điều khiến nhiều du khách quốc tế ấn tượng nhất là sự tự nhiên trong đời sống thường ngày. Một nhóm khách từ Canada chia sẻ sau khi rời bản: “Chúng tôi cảm giác như đang bước vào một nơi chưa bị du lịch hóa. Không có sự bài trí nào để làm hài lòng khách, mọi thứ tồn tại đúng như nó vốn có.” Những nếp nhà trình tường mái ngói âm dương, tiếng khèn môi vang trên triền đá vào buổi sớm, phụ nữ ngồi xe lanh trước sân… tất cả tạo nên một bức tranh mà không công nghệ nào có thể tái tạo trọn vẹn.