GS - TS Ngô Đức Thịnh: Sống chết với đạo Mẫu

TP - Đạo thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian phổ biến tại Việt Nam, nhưng vì nhiều lý do nên việc nghiên cứu không phổ biến như nghiên cứu đạo Nho, đạo Phật. Một trong những người dày công tìm hiểu đạo Mẫu và viết nhiều công trình giá trị là giáo sư Ngô Đức Thịnh, một người con của đất Nam Định, người tự nhận mình: “Trọn đời nghiên cứu đạo Mẫu”.

“Đồng hương” với … chúa Liễu

Giáo sư Ngô Đức Thịnh sinh ra ở Nam Định nơi phát tích phong tục thờ bà Liễu Hạnh và truyền thuyết dân gian nói rằng bà đã sinh trưởng tại đây. Từ nhỏ, đã được nghe được thấm những điệu hát chầu văn, được dự nhiều cuộc lên đồng, phát lộc. Lớn lên, nghiên cứu rộng về văn hóa dân gian, trong đó có cả khảo cổ, nghiên cứu văn hóa phi vật thể và văn hóa vật thể, một thời gian làm lãnh đạo Viện Nghiên cứu Văn hóa (Hà Nội) song giáo sư thường đơn giản nhận xét về mình là “Một người dành trọn đời mình cho đạo Mẫu”.

GS - TS Ngô Đức Thịnh: Sống chết với đạo Mẫu ảnh 1

Tranh: Nguyễn Văn Hổ.

Khi tôi theo học tại Viện Nghiên cứu Văn hóa, giáo sư là người trực tiếp giảng dạy chúng tôi về đạo Mẫu. Với giọng nói say sưa, nhiệt huyết vô bờ bến, nhưng cũng với một thái độ khách quan, khoa học, thận trọng, giáo sư Ngô Đức Thịnh luôn phân biệt giữa văn hóa lên đồng của thế giới và đạo Mẫu của Việt Nam. Theo giáo sư: “Lên đồng mà thế giới gọi là Shaman là một hình thức mà con người tìm cách liên thông với thần linh và hình thức này phổ biến ở khắp nơi trên thế giới. Trong đạo Mẫu có việc lên đồng, nhưng lên đồng không phải là toàn bộ bản chất của đạo Mẫu, mà đạo Mẫu là một tôn giáo dân gian phản ánh truyền thống uống nước nhớ nguồn, tinh thần dân tộc và khơi dậy lòng yêu nước của người Việt Nam”.

Khi nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh đi sâu nghiên cứu đạo Mẫu, lúc đó việc lên đồng còn bị cấm vì bị quy là mê tín dị đoan. Việc dám lao vào nghiên cứu một lĩnh vực nhạy cảm như vậy, nhất là với tư cách một nhà nghiên cứu làm việc trong hệ thống nhà nước, không phải là chuyện dễ dàng. Việc công bố, phổ biến và công nhận các nghiên cứu về đề tài này nhiều khi rất hạn chế. Nhưng giáo sư Ngô Đức Thịnh cho biết, ông cảm thấy mình phải có trách nhiệm nghiên cứu, “vì Việt Nam có khoảng 7.000 đền phủ thờ đạo Mẫu trong cộng đồng, chưa kể các đền phủ tư nhân. Là một nhà khoa học thì không thể không công nhận sự thật khách quan ấy, không thể coi như nó không tồn tại, và buộc phải bắt tay vào nghiên cứu để cắt nghĩa vì sao các đền phủ lại phổ biến như vậy và vì sao đạo Mẫu lại có sức sống lâu bền như thế”.

Những năm gần đây, nghi thức tín ngưỡng chầu văn hầu đồng đã được công nhận, Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia và hồ sơ di sản này đang được nghiên cứu đệ trình UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể của nhân loại, cho thấy những băn khoăn mang đầy khát khao khám phá khoa học của giáo sư Ngô Đức Thịnh  và những giọt mồ hôi đổ ra trong các công trình nghiên cứu của ông là không uổng. Hiện giáo sư tiến sĩ Ngô Đức Thịnh là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam thuộc Hội Di sản Việt Nam. 

Văn hóa là của dân

Giáo sư Ngô Đức Thịnh thường kết luận với chúng tôi một câu thế này: “Văn hóa là của dân. Người dân sáng tạo ra văn hóa ấy. Muốn tìm nó thì phải về với dân”. Để dẫn chứng, giáo sư đưa chúng tôi đi xuống các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, vào tận các đền phủ ở những làng xa xôi hẻo lánh, xem những cuộc hầu đồng. Gặp gỡ con nhang đệ tử đến xem, gặp những người hầu đồng và gặp cả những “ông đồng bà cốt” bằng xương bằng thịt. Hầu như đền phủ nào họ cũng biết tên giáo sư Ngô Đức Thịnh và đều rất nể trọng ông. Một vị chức sắc trong phủ thờ Mẫu nói: “Giáo sư Thịnh rất nghiêm túc trong việc nghiên cứu. Mỗi đền phủ thường có một khuynh hướng và phong tục thờ Mẫu có nét riêng của mình, nhưng nhìn chung các phủ đều quan tâm đến những nghiên cứu của giáo sư Thịnh”.

Một số nhà nghiên cứu quốc tế khi trò chuyện với chúng tôi đã tỏ ra rất khâm phục “máu đi điền dã của giáo sư Thịnh vì ông luôn gắng theo sát với từng thay đổi của các hiện tượng văn hóa và lý giải chúng từ bản chất.

Đến mỗi đền phủ, ông đều ghi chép sự tích, xem xét việc thờ phụng những ai, nguyên do thế nào. Ông tìm hiểu từng nét vẽ, từ câu ca. Từ Bắc và Trung, từ Nam rồi lại vượt lên vùng núi cao nơi dãy Trường Sơn hùng vĩ. Những điểm giống, điểm khác nhau ở mỗi ban thờ, mỗi phủ thờ đều được ghi chép cẩn thận. Phong cách nghiên cứu vừa dân dã vừa khoa học của ông rất được các nhà khoa học quốc tế đánh giá cao và ông đang giữ chức ?Phó chủ tịch Hội đồng Folklore (Văn hóa dân gian) châu Á. Một số nhà nghiên cứu quốc tế khi trò chuyện với chúng tôi đã tỏ ra rất khâm phục “máu đi điền giã của giáo sư Thịnh vì ông luôn gắng theo sát với từng thay đổi của các hiện tượng văn hóa và lý giải chúng từ bản chất.

Nhờ những chuyến điền dã và ghi chép lại mà giáo sư Ngô Đức Thịnh đã phát hiện ra việc hầu đồng không phải là một hiện tượng mê tín dị đoan như người ta nghĩ, khi giáo sư thống kê được “trong số khoảng 50 vị thần mà đạo Mẫu tôn thờ, hầu hết là những nhân vật lịch sử, có công với dân tộc”. Nhiều người anh hùng dân tộc được nhân dân thờ trong các phủ như Đức thánh Trần Hưng Đạo Đại Vương, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng.?Nhiều vị cũng được huyền thoại hóa như ông Hoàng Mười ở Nghệ An. Giáo sư cũng phát hiện ra việc hát văn hầu đồng là một văn hóa độc đáo kết nối giữa người miền xuôi với người miền ngược, trong các vị thần được thờ trong đạo Mẫu có hàng chục vị thần là người các dân tộc thiểu số.

GS - TS Ngô Đức Thịnh: Sống chết với đạo Mẫu ảnh 2

giáo sư Ngô Đức Thịnh.

Đi tìm bản sắc dân tộc trong đạo Mẫu

Theo giáo sư Ngô Đức Thịnh thì đạo Mẫu đã vượt trên những tín ngưỡng dân gian riêng lẻ trong thuyết vạn vật hữu linh của con người thời cổ, mà đã hình thành nên một tôn giáo dân gian với một hệ thống các vị thần linh từ thấp đến cao được tập hợp trong tam phủ, tứ phủ: “Vốn là một tín ngưỡng dân gian mang tính tản mạn, rời rạc, nay bước đầu quy về một hệ thống tương đối nhất quán về?điện thần với các phủ?(Thiên Phủ, Địa Phủ, Thoải Phủ, Nhạc Phủ), các hàng thần (Ngọc Hoàng - Mẫu - Quan - Chầu - ông Hoàng, Cô, Cậu…) tương đối rõ rệt. Một điện thần với trên 50 vị thần lớn nhỏ đều quy về vị Thần chủ cao nhất là Thánh Mẫu”.

Giáo sư cho biết ngoài các bản kinh, những bài chầu Văn rất hay, sâu sắc, kinh điển được ghi chép và lưu truyền nhiều đời, đạo Mẫu Việt Nam cũng có những “con nhang đệ tử” trung thành tạo ra những cộng đồng văn hóa tín ngưỡng tồn tại lâu đời quanh các đền phủ và đó là một điều rất thú vị.  Giáo sư nói: “Tôi đã viết và in được chừng 10 đầu sách liên quan đến đạo Mẫu và rất nhiều bài viết riêng lẻ nữa. Sắp tới tôi sẽ in một cuốn sách bằng tiếng nước ngoài để cho mọi người hiểu thêm về đạo Mẫu Việt Nam”.

Trong các tôn giáo tồn tại ở Việt Nam thì đa số có nguồn gốc ngoại lai như đạo Nho, đạo Phật hay đạo Lão, riêng đạo Mẫu, theo giáo sư: “Đạo Mẫu hoàn toàn là một tôn giáo bản địa, vì trong đạo Mẫu không có vị thần nào có nguồn gốc từ nước ngoài mà toàn bộ các vị thần đều là người Việt Nam và cai quản đất nước Việt Nam”. Một tôn giáo với hệ thống các vị thần từ thấp đến cao đều là người bản địa, thần linh bản địa được phổ biến khắp nơi và tồn tại lâu đời là một nét văn hóa rất hiếm với bất kỳ quốc gia nào.

Nghiên cứu đạo Mẫu là một hướng nghiên cứu mới của các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, mặc dù thời Pháp thuộc đã có những nghiên cứu đầu tiên nhưng sự nghiên cứu liên tục bị đứt quãng, thậm chí có lúc lên đồng hát văn bị nghiêm cấm, nên không ngạc nhiên khi những nghiên cứu về đạo Mẫu vẫn còn nhiều điều chưa thật hoàn thiện. Nhiều ý kiến khác nhau, nhiều tranh luận. Song theo giáo sư Thịnh thì chính nghiên cứu đạo Mẫu là được sống với cuộc sống của người dân, vừa sống, vừa viết, vừa trao đổi, vừa thống nhất để tìm ra những điều chân lý, đó là niềm hạnh phúc của những người nghiên cứu về lĩnh vực văn hóa tín ngưỡng độc đáo này. Giáo sư vui vẻ cho biết: “Mới rồi chúng tôi tổ chức hội thảo khoa học về đạo Mẫu ở TPHCM và các tỉnh khác, rất nhiều người quan tâm”.     

Việc nghiên cứu đạo Mẫu ngày càng được quan tâm, nhiều bạn nghiên cứu trẻ cũng đang quan tâm đến lĩnh vực khá “hóc búa này”. Giáo sư tiến sĩ Kiều Thu Hoạch, một đồng nghiệp của giáo sư Ngô Đức Thịnh kể: “Có bạn nghiên cứu đạo Mẫu mấy năm liền lăn lộn ở các đền phủ đến nỗi người ta tưởng sắp thành ông đồng bà cốt, còn bị chồng ghen. Nhưng điều đó cho thấy sự cuốn hút của đạo Mẫu với các nhà nghiên cứu trẻ”.   Giáo sư Ngô Đức Thịnh thì vui vẻ cho biết: “Trước đây hầu đồng là sinh hoạt văn hóa bị nghiêm cấm, nhưng giờ đây hồ sơ đệ trình di sản hát chầu  Văn, một hình thức sinh hoạt văn hóa quan trọng của đạo Mẫu đã được đệ trình lên UNESCO và có thể sẽ được tổ chức này xem xét danh hiệu di sản phi vật thể của nhân loại trong năm 2016, đó là bước tiến bộ đáng kể trong việc nhìn nhận đánh giá văn hóa và tín ngưỡng của dân tộc”.

9/2015

Nguy cơ biến dạng đạo Mẫu

Trao đổi với chúng tôi, giáo sư Ngô Đức Thịnh cho biết: “Xã hội ta đang đi theo hướng thực dụng, nhất là với những người lắm tiền nhiều của. Một khi giá trị xã hội thay đổi thì chắc chắn nó cũng ảnh hưởng đến đời sống tinh thần nói chung trong đó có đạo Mẫu. Theo tôi, nhiều đền phủ hiện đang bị biến dạng đi, theo hướng tiêu cực. Nhiều đền phủ chủ yếu mọc lên để con người vụ lợi, lợi dụng tiền bạc của người dân”. Giáo sư Kiều Thu Hoạch, người cũng đang nghiên cứu về đạo Mẫu cho biết: “Nhiều đền phủ tự nhận lên đồng, nhập đồng, nhưng họ chỉ đóng kịch vào vai các vị thần để đánh lừa những người cả tin”. 

Theo giáo sư Ngô Đức Thịnh thì Trung tâm của ông cùng nhiều nhà nghiên cứu, các viện, các trường đang cố gắng tổ chức nhiều hoạt động phổ biến các nghiên cứu khoa học, giúp cộng đồng nâng cao ý thức bảo vệ các giá trị chân chính của đạo Mẫu, đó là: “Cộng đồng những người yêu văn hóa đền phủ cần phải bảo vệ giá trị niềm tin tốt đẹp vào những vị anh hùng dân tộc, bảo vệ niềm tin đối với tình yêu quê hương đất nước, không tin vào những điều mê tín dị đoan và tư tưởng thực dụng, vụ lợi”.

MỚI - NÓNG