Gia tăng hàm lượng công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm công nghiệp hỗ trợ

Nhiều năm qua, Chính phủ và Bộ Công Thương đã nỗ lực ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đổi mới sáng tạo, đầu tư ứng dụng công nghệ tiên tiến nhằm thúc đẩy nội địa hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ để tiến sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, đến nay sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong nước vẫn còn ‘nghẽn’ do hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm.

XÂY DỰNG NỀN TẢNG CHO CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ

Về những thách thức với doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và năng lực sản xuất, cung ứng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ nói chung và trình độ khoa học công nghệ nói riêng của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước, ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho rằng, bên cạnh những tồn tại, phải thừa nhận, công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam đã có những gam màu tươi sáng hơn rất nhiều so với những năm trước đây.

Đánh giá của Cục Công nghiệp cho thấy, một số doanh nghiệp trong nước cũng đã làm chủ được các quy trình sản xuất, đặc biệt là quy trình sản xuất những sản phẩm, những linh kiện có biên dạng phức tạp hay hàm lượng công nghệ cao như khuôn mẫu hay sản xuất các linh kiện về nhựa, kim loại có yêu cầu kỹ thuật cao. Tuy nhiên, hiện nay tỉ lệ nội địa hóa của nhiều ngành đang còn rất thấp và chỉ dừng lại khoảng 30 - 40% chưa đạt được kỳ vọng của Chính phủ là có thể tới 50 hay 60%.

Tỉ lệ nội địa hóa thấp, năng lực cạnh tranh về giá cũng không cao và đặc biệt trình độ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp vẫn đang còn ở mức trung bình, khả năng ứng dụng nghiên cứu khoa học rồi nghiên cứu và phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đang còn rất yếu.

Ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương)

Theo lãnh đạo Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, thời gian qua, Bộ Công Thương cũng đã có rất nhiều giải pháp nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng như công nghệ.

Cụ thể, bộ đã xây dựng chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 cho đến nay và đã cụ thể hóa bằng hàng trăm doanh nghiệp tham gia các dự án công nghiệp hỗ trợ về tư vấn cải tiến sản xuất, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, sản xuất thử nghiệm và sản xuất thử nghiệm những sản phẩm mới.

Bộ cũng đã xây dựng các hệ thống, các trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, đặc biệt là các trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp dạng vùng như trung tâm IDC và sau đó sẽ lấy mô hình của Trung tâm IDC để lan tỏa ra và xây dựng các trung tâm vệ tinh ở các địa phương và các trung tâm này đóng các vai trò như một ‘bà đỡ’ cho doanh nghiệp, tức là doanh nghiệp có thể tiếp cận công nghệ, tư vấn kỹ thuật, kết nối cung cầu sản xuất sản phẩm, thử nghiệm và tiêu chuẩn hóa quy trình hiện nay, các trung tâm như chúng tôi đã được Nhà nước đầu tư rất mạnh về các trang thiết bị, máy móc, gia công cơ khí như các máy gia công ba trục, năm trục hiện đại và có độ chính xác cao. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp hoàn toàn có thể đến gia công sản xuất thử nghiệm.

Cùng đó, Bộ Công Thương cũng đã đầu tư cho các máy móc, thiết bị về thử nghiệm và chứng nhận chất lượng sản phẩm, ví dụ như máy kiểm tra không phá hủy X-ray, kiểm tra khuyết tật của sản phẩm hay các máy móc, thiết bị khác như kéo nén, phân tích thành phần của vật liệu hay kiểm tra đo độ nhám... Đấy là những máy móc rất hiện đại mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể đến Trung tâm IDC để sử dụng và thông qua đấy kiểm tra xem sản phẩm cuối cùng của mình đã đạt tiêu chuẩn quốc tế hay chưa.

Điểm quan trọng nữa chính là việc Bộ Công Thương đã phối hợp với nhiều tập đoàn FDI nhằm từng bước hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn này. Hàng năm Trung tâm cũng đã hỗ trợ trung bình khoảng 5 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của Toyota. Hay từ năm 2016 cho đến năm 2024, Trung tâm cũng đã phối hợp với Tập đoàn Samsung để hàng năm đào tạo, tư vấn cải tiến quy trình sản xuất, ứng dụng các giải pháp về chuyển đổi số như nhà máy thông minh vào quy trình sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam nhằm làm sao từng bước đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật của Samsung.

Những giải pháp này, theo ông Cường, nhằm dần dần từng bước nâng cao chất lượng sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc có thể trở thành ngay vendor cấp một, cấp hai của các tập đoàn FDI lớn phải xác định rất khó, không thể là ngày 1, ngày 2 hay là một năm, hai năm mà doanh nghiệp xác định có thể 4-5 năm trở ra mới trở thành Vendor cấp một được. Nhưng với sự hỗ trợ của Bộ Công Thương, từng bước các doanh nghiệp sẽ dần dần vào được thành chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn.

HÌNH THÀNH CƠ CHẾ CỤ THỂ ĐỂ VÀO

CHUỖI SẢN XUẤT TOÀN CẦU

Ông Nguyễn Vân - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Thành phố Hà Nội (HANSIBA) cũng khẳng định, công nghiệp hỗ trợ ngày càng khẳng định vai trò quan trọng, vừa là bệ đỡ cho công nghiệp chế biến, chế tạo, vừa là động lực giúp Hà Nội mở rộng hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Theo ông Vân, đến nay, công nghiệp hỗ trợ đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng, vừa là bệ đỡ cho công nghiệp chế biến, chế tạo, vừa là động lực giúp Hà Nội mở rộng hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu với 1000 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, trong đó cũng đã có khoảng độ 35% đạt tiêu chuẩn quốc tế đạt các chứng chỉ ISO trong hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, hơn 300 doanh nghiệp đã xây dựng các hệ thống sản xuất đạt tiêu chuẩn quốc tế để tham gia vào chuỗi hội nhập giá trị sản xuất toàn cầu với các tập đoàn FDI.

Thực tế cho thấy, vai trò của cơ quan quản lý nhà nước, những sự hỗ trợ, các chương trình hỗ trợ của cơ quan quản lý hay sự tạo điều kiện tốt nhất từ phía địa phương rất quan trọng với lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Tuy nhiên, nỗ lực tự thân của doanh nghiệp thực sự đóng vai trò then chốt trong câu chuyện giải quyết bài toán công nghệ cho các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.

Ông Nguyễn Vân - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp

công nghiệp hỗ trợ Thành phố Hà Nội (HANSIBA)

“Thực tế cho thấy, vai trò của cơ quan quản lý nhà nước, những sự hỗ trợ, các chương trình hỗ trợ của cơ quan quản lý hay sự tạo điều kiện tốt nhất từ phía địa phương rất quan trọng với lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Tuy nhiên, nỗ lực tự thân của doanh nghiệp thực sự đóng vai trò then chốt trong câu chuyện giải quyết bài toán công nghệ cho các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ”, ông Vân chia sẻ.

Theo ông Vân, nhiều năm qua HANSIBA cũng có những đề xuất với các cấp, ngành Trung ương, rất mong muốn Quốc hội, Bộ Công Thương, Chính phủ cũng có những đạo luật đặc thù cho lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và có những văn bản hướng dẫn dưới luật để làm sao đi vào đời sống của chủ thể doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt quan tâm đến vấn đề nguồn vốn của các định chế tài chính trong nước cũng như quốc tế.

Bên cạnh đó, lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại cổ phần cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ cũng như các chủ thể doanh nghiệp trong nước của chúng ta chưa được bằng với mặt bằng chung của các nước Đông Nam Á. Lãi suất vẫn cao gần như gấp đôi, gấp ba so với các nước trong khối top đầu của Đông Nam Á, ASEAN. Để rút ngắn những khoảng cách và những vấn đề còn thiếu, còn yếu của doanh nghiệp như đầu tư máy móc, thiết bị cho sản phẩm đấy được tiếp cận với các doanh nghiệp nước ngoài trong bối cảnh doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ hầu hết đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần có thêm các chính sách bổ sung liên quan đến hỗ trợ vốn đầu tư công nghệ ban đầu để mua sắm những máy móc hoặc đầu tư phòng thí nghiệm. Việc Bộ Công Thương, Hà Nội và các địa phương có những chương trình kết hợp các Sở, ngành thực hiện chỉ đạo của hợp tác với các cơ quan, trung tâm, viện nghiên cứu, thậm chí các trường đại học cũng là những bước khởi đầu rất thuận lợi cho đội ngũ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ.

“Hiệp hội chúng tôi cũng rất mong muốn chính quyền thành phố Hà Nội tiếp tục tháo gỡ những rào cản hết sức cụ thể về thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Thủ đô Hà Nội và các chủ thể doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ trong nước về vấn đề thủ tục hành chính, vấn đề về đầu tư xây dựng nhà máy sẽ giảm được những giấy phép con về thủ tục xây dựng nhà máy, giấy phép xây dựng, phòng cháy, chữa cháy, rồi những điều trong thẩm quyền của thành phố Hà Nội có thể rút ngắn được thủ tục đó, làm sao để doanh nghiệp triển khai đầu tư xây dựng đi vào sản xuất, mở rộng các nhà máy, xí nghiệp một cách cụ thể hơn”, ông Vân đề xuất.

MỞ LỐI ĐI RIÊNG,

TẠO DỰNG LIÊN KẾT GIỮA CÁC DOANH NGHIỆP

Ông Cao Văn Hùng - Giám đốc phát triển thị trường quốc tế, Công ty CP Cơ khí chính xác Smart Việt Nam cho rằng, có 3 yếu tố cốt lõi giúp Smart Việt Nam cũng như các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đáp ứng yêu cầu của khách hàng, tạo sức cạnh tranh, tham gia được các chuỗi cung ứng đó là: Đầu tư theo chiều sâu; Chuẩn hóa quy trình một cách toàn diện; Xây dựng văn hóa chất lượng.

Theo ông Hùng, xác định đi đường dài nên Smart Việt Nam luôn xác định rõ con đường, đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật khắt khe từ khách hàng để ngày càng thâm nhập sâu hơn vào chỗ ứng toàn cầu. Ngay từ đầu khi định hướng đi sâu vào ngành công nghiệp chế tạo, công nghiệp phụ trợ, công ty đã có định hướng trở thành một doanh nghiệp đầu ngành trong ngành xuất khẩu về các hạng mục công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam, tạo ra tiền đề để có thể kéo các doanh nghiệp khác đi theo và tạo mũi nhọn trước để cùng các doanh nghiệp đầu ngành đưa các doanh nghiệp Việt Nam đi theo và lấy được những dự án về Việt Nam. Ở đây yếu tố công nghệ, chiều sâu được công ty đầu tư rất nhiều. Trong việc sử dụng các máy móc hiện đại, công ty sử dụng gần như hiện đại đầu ngành trong ngành gia công kim loại tấm, từ các thương hiệu của Đức hay Nhật Bản.

Ông Hùng cho rằng, việc tăng thêm các hàm lượng công nghệ cho sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp củng cố được vị thế. Rất nhiều doanh nghiệp đang nằm trong phân khúc nhà cung cấp cấp ba, cấp bốn. Nếu không có sự đổi mới về mặt công nghệ, áp thêm những giá trị mới, chắc chắn không thể lên được trở thành nhà cung cấp cấp hai hoặc cấp một, lợi thế của doanh nghiệp cũng mất đi. Khi tăng được thêm hàm lượng công nghệ cũng sẽ giúp cho doanh nghiệp mở khóa được các thị trường tiềm năng hơn, có được biên lợi nhuận lớn hơn.

CẦN CỤ THỂ HÓA CHÍNH SÁCH

BẰNG HÀNH ĐỘNG

Theo ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những biến động và điều này cũng sẽ mang lại những cơ hội chưa từng có cho doanh nghiệp Việt Nam. Đấy là xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu sau đại dịch hay là các chính sách như trung hòa rủi ro của các tập đoàn lớn thay vì các tập đoàn lớn chỉ tập trung gia công sản xuất tại Trung Quốc hay tại Ấn Độ. Gần đây các tập đoàn lớn cũng đã dịch chuyển dần sang và gia công sản xuất tại Việt Nam. Đấy chính là những cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp công nghiệp và đặc biệt công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam. Từ đó Việt Nam cũng sẽ trở thành trung tâm sản xuất linh kiện hay bán thành phẩm ở khu vực.

Bên cạnh đó, chính sách về thu hút đầu tư công nghệ cao hay năng lượng xanh hay kinh tế tuần hoàn của Chính phủ Việt Nam cũng tạo nền tảng thuận lợi để cho các doanh nghiệp trong nước tham gia sâu hơn vào cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên cũng có rất nhiều các thách thức như: thách thức về tài chính, thách thức về công nghệ và thách thức nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được với yêu cầu của các tập đoàn lớn.

Về chuyển đổi công nghệ, theo đại diện Cục Công nghiệp, để các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ có thể nâng cao đổi mới công nghệ cũng yêu cầu rất lớn về vấn đề tài chính. Trong những năm vừa qua Bộ Công Thương đã hỗ trợ rất nhiều cho các doanh nghiệp trong ưu đãi về thuế, thuế thu nhập doanh nghiệp, tín dụng, đất đai, môi trường… và cũng hỗ trợ doanh nghiệp trong việc phát triển các phần mềm hay tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc áp dụng các công nghệ mới như chuyển đổi số, AI vào quá trình sản xuất, áp dụng các phần mềm quản lý sản xuất như MES hay ERP, IoT hay là quản lý về chuyển đổi số…

Cũng theo ông Cường, việc những chính sách mới được ban hành như bộ tứ nghị quyết của Bộ Chính trị, hay Nghị định 205 của Chính phủ được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá rất cao với kỳ vọng góp phần giải quyết rất nhiều những rào cản, điểm nghẽn cho cộng đồng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Cụ thể, Nghị định 205 các quy định của không chỉ gỡ nút thắt về vốn mà còn mở cơ chế liên kết ba bên: Nhà nước - viện, trường - doanh nghiệp, nhằm tháo gỡ điểm nghẽn về chuyển giao công nghệ, thử nghiệm và tiêu chuẩn hóa, tăng hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp.

Tuy nhiên, để chính sách đi vào thực tiễn cần cụ thể hóa chính sách bằng hành động, tăng cường khảo sát, tuyên truyền, phổ biến chính sách tới doanh nghiệp. Cùng với đó, cần lấy doanh nghiệp làm trung tâm, hỗ trợ thực chất về đổi mới sản xuất, thuế, đất đai, tín dụng, thay vì chỉ thủ tục hành chính; tăng cường liên kết vùng, ngành và chuỗi, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, có sự đồng hành mạnh mẽ của các hiệp hội doanh nghiệp. Ngoài ra, cần thúc đẩy phối hợp Nhà nước - viện, trường - doanh nghiệp - hiệp hội để tạo sức lan tỏa và triển khai hiệu quả chính sách.

“Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, các tập đoàn đa quốc gia khi đầu tư vào Việt Nam thường mang theo chuỗi cung ứng khép kín, đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng và công nghệ rất cao. Dù nhu cầu nội địa lớn, nhưng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam khó chen chân vào mạng lưới cung ứng do chưa đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật, năng suất, quản trị và khả năng truy xuất nguồn gốc. Nếu không sớm cải thiện năng lực công nghệ, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, khó nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh trong thời kỳ công nghiệp 4.0”, Bộ Công Thương.

Theo đánh giá của Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), sau nhiều năm, đến nay các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn phải đối mặt với những điểm nghẽn trong phát triển, dẫn đến chưa đủ năng lực cung cấp linh kiện và phụ tùng có hàm lượng công nghệ cao, kỹ thuật phức tạp đáp ứng các tiêu chuẩn chuỗi sản xuất hiện đại. Doanh nghiệp trong nước cần bứt phá mạnh mẽ hơn nữa để gia tăng hàm lượng công nghệ trong sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị.