“May mà năm nay sông Hồng cạn nước thì tìm gia đình ông ấy mới dễ thế này" - Anh cán bộ văn hoá xã Tráng Việt (Mê Linh, Vĩnh Phúc) bảo với tôi khi cùng đến xóm vạn chài Thuỵ An. Anh hướng về chiếc thuyền đang đậu lẻ loi trong một khúc sông, miệng gọi to: “Ông Oanh “có nhà” không đấy?”.
“Có..ó..ó” - Tiếng người đáp dài, nhưng giọng không phải là đàn ông, rồi từ trong khoang thuyền lụp xụp, một đứa trẻ chậm chạp bò ra khỏi khoang thuyền. Đứa trẻ lết xuống một chiếc thuyền nhỏ cạnh chiếc thuyền ấy. “ Khéo ngã cháu ơi?” - Tôi kêu lên. Đứa trẻ ấy không nói gì mà chậm chạp chèo thuyền lại bờ.
Con thuyền chậm chạp trôi lại gần bờ. Tôi bỗng bàng hoàng. Không, không phải là một đứa trẻ chèo thuyền mà trước mắt tôi là một người tôi không đoán được tuổi, nhưng người ấy là con gái. Tôi đoán thế vì nhìn qua quần áo người ấy mặc. Người ấy không đứng được, chỉ ngồi trên mũi thuyền, nói với tôi: “Anh lên đi, bố em có nhà đấy”.
Con thuyền nhỏ tròng trành đưa tôi cập mạn thuyền lớn. Trước mắt tôi, một người nữa ngồi trong khoang thuyền có vóc dáng bé nhỏ cũng như người chèo thuyền ngoài kia. Nhưng người này... giơ cả hai chân và…hai tay đưa ra phía trước… chào tôi và nói: “ Anh vào trong này đi”.
“Ai vậy con?” - Một giọng đàn ông khàn đặc cất lên từ đống chăn chiếu lùng nhùng ở góc khoang thuyền. “Con không biết thầy ạ, họ bảo đến thăm thầy”.
Cha và con và…
![]() |
| Những tấm ảnh mà xóm vạn chài tặng gia đình ông Oanh |
“Gia đình tôi, bố mẹ sinh ra được 3 anh em trai. Năm 1950, Pháp khủng bố mạnh xã Tráng Việt vì nơi đây đã từng đặt nhà in của Trung ương Đảng, là nơi có nhiều cơ sở cách mạng. Ba anh em tôi đều vào du kích. Em út của tôi từng giữ chức đội trưởng du kích vạn chài, sau chú ấy vào bộ đội. - Ông Phan Đình Oanh trầm giọng kể - Em tôi vào bộ đội được 1 năm thì hy sinh ở chùa Non Nước (Ninh Bình). Tôi và anh tôi ở nhà đưa bộ đội qua sông diệt bốt Bồng (Đan Phượng, Hà Tây) và tải gạo, đạn cho các đơn vị đóng quân ở Việt Trì. Sau hoà bình vài năm, tôi lại xung phong đi bộ đội”.
Đến đây, ông Oanh im lặng. Gặng hỏi hồi lâu, cặp mắt mờ đi và chòm râu bạc rung rung, ông nói, ông chỉ nhớ được rằng mình đã cùng đồng đội vào được đến Tây Nguyên. “Cánh rừng ấy, trơ trọi lắm, không có lá cây, không có tiếng chim… Tôi ốm một trận tưởng chết. Sau đó, tôi ra Bắc, cấp trên cho tôi giải ngũ, trở về vạn chài”.
Ngày vợ chồng ông sinh đứa con đầu tiên, vạn chài im lìm. Đứa bé sinh ra không như những đứa trẻ khác. Nó có cái chân như chân vịt của thuyền máy và…cong. Bà Đọn - Vợ ông - nhìn ông, nhìn con khóc ròng. Mấy năm sau, vợ chồng ông sinh tiếp đứa thứ hai. Bà đỡ làng chài đón đứa bé gái mới chào đời đêm ấy thét lên một tiếng hãi hùng. Ông nhảy vào khoang thuyền. Trời ơi, hai chân đứa bé đưa lên cao như vẫy chào!
Bốn cánh tay chèo chống cuộc đời
Hơn 40 năm qua, gia đình ông Oanh cứ bập bềnh trên sóng sông Hồng như một tổ chim trôi dạt. Gia đình ông mưu sinh bằng nghề đánh cá sông, nhưng mấy năm nay, tàu bè chạy nhiều, dòng sông cạn, tôm cá ít. Tuy vậy, tiết kiệm dư giả được chút nào, vợ chồng ông đều dành dụm để chữa bệnh cho con nên hoàn cảnh gia đình luôn túng thiếu.
Gần 10 năm qua, ông Oanh nhớ ông chỉ có 2 lần lên bờ. Đó là mùa đông năm 2001, trước ngày 22/12, xã Tráng Việt long trọng tổ chức lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Pháp. Ông được Hội Cựu chiến binh xã tặng một bộ đồ quân nhân, mũ kê- pi. Ông được đứng trong hàng ngũ những cựu chiến binh của địa phương đi đón danh hiệu anh hùng cho quê hương. Và lần nữa cũng cuối năm ấy, ông lên bờ để đưa vợ về cõi vĩnh hằng.
Chúng tôi lấy làm lạ vì hôm nay ba bố con ông Oanh không có một thứ giấy tờ gì tuỳ thân. Ông Oanh bảo: “Không còn nữa vì bao lần thuyền đắm, thuyền lật do mưu sinh trên sông nước. Còn hai đứa con gái tôi, chúng nó có đi đâu mà làm giấy tờ!.”
“Chị Vinh ơi, năm nay chị bao nhiêu tuổi?” - Tôi cất tiếng hỏi chị con gái đầu lòng của ông Oanh. “ Dạ, năm nay em ba mươi tám” - Chị Vinh đáp. “Còn chị Sen?” - Tôi hỏi. “ Dạ, em hai bảy” - Chị Sen trả lời.
“Thấy đàn ông lạ lên thuyền, chúng nó đều gọi là anh. - Ông Oanh giải thích - Từ hồi chúng sinh ra, chưa lần nào được lên bờ, mà lên bờ thì đi thế nào được”.
Từ hồi vợ mất, ông Oanh xuống sức hẳn. 3 năm trước, sau một lần đánh cá trên sông con thuyền mục nát suýt chìm vì tay chèo yếu sức của ông. Ông không dám đi xa nữa mà chỉ quanh quẩn ở khúc sông xóm vạn chài định cư. Năm 2002, Hội Chữ thập đỏ tỉnh Vĩnh Phúc tặng gia đình ông 10 triệu đồng để tu sửa con thuyền mục nát này.
Ông Oanh bây giờ chỉ nằm trong khoang thuyền. Tuổi 78 và căn bệnh nhức nhối vô hình đang tàn phá cơ thể ông. Nguồn sống duy nhất hiện nay trông đợi ở hai đôi cánh tay của hai người con gái tật nguyền. Hàng ngày, cứ đến 3 giờ chiều, Vinh và Sen lại chèo chiếc thuyền nhỏ đi thả đó tôm dọc xóm vạn chài.
Đến 6 giờ tối, hai chị em về nhà ăn cơm tối và ngủ lấy lại sức để đến 3 giờ sáng hôm sau lại trở dậy chèo thuyền đi đổ đó tôm cho kịp sáng để có người đến đón mua. Hôm chúng tôi đến, chị Vinh khoe sáng nay chị vừa bán được 2 lạng tôm được 6 ngàn đồng, “Cũng đủ gạo ngày hôm nay anh ạ” - Chị nói.
Ông Oanh cho biết, những hôm trời yên sóng lặng thì ông ngủ yên, nhưng có hôm sóng to đến 7 giờ sáng mà không thấy các con về, thì ông phải cố chống gậy đi dọc bờ sông gọi con. Những lần như thế, chị Vinh và chị Sen đành cứ để cho sóng đánh thuyền dạt vào đâu thì dạt. Sáng hôm sau mới lại chèo về. “Có hôm may gặp được người làng thì họ kéo về cho” - Chị Sen kể.
Trong khoang thuyền của ông Oanh, tôi thấy làm lạ thấy trên vách khoang thuyền treo rất nhiều ảnh của những đôi vợ chồng mới cưới, những chàng trai mặc quân phục đang vác súng đứng ở thao trường… “Người làng chài cho tôi đấy, các cháu bảo treo ở đây cho tôi vui và các con tôi đứa nào cũng thích những tấm ảnh này” - Ông Oanh cho biết.
“Các hộ khá giả của vạn chài đã mua được đất trên bờ rồi. - Phó chủ tịch UBND xã Tráng Việt Ngô Văn Xiêm nói - Chuyện ông Oanh là nạn nhân chất độc da cam cả vùng ai cũng biết và gia đình ông là gia đình nghèo nhất xã hiện nay, nhưng chúng tôi cũng chưa biết phải làm gì". Ông Xiêm cũng cho biết, vạn Thụy An có trên 60 hộ dân thì hiện nay đã có 40 hộ có tiền mua được đất, xây nhà trên bờ.
Rời khỏi khoang thuyền của gia đình ông Oanh, mắt tôi mờ đi vì mưa bụi giăng kín mặt sông. Tôi tin rằng họ vẫn sống và tiếp tục sống như thế. Nhưng tôi lo sợ rằng một ngày kia khi người cha, trụ cột của gia đình đổ xuống, con thuyền mỏng manh ấy sẽ đưa hai người con gái tật nguyền trôi dạt về đâu…
