Phát hiện mới này tác động lớn tới các chiến lược điều trị trong tương lai cho những người mắc bệnh đa xơ cứng (MS).
Bệnh đa xơ cứng ước tính ảnh hưởng tới 2,3 triệu người trên toàn thế giới. Đa số bệnh nhân được chẩn đoán RRMS, đặc trưng bởi các giai đoạn tạm gọi là tái phát, bùng phát hoặc bệnh trở nặng với các triệu chứng mới xuất hiện.
Theo một nghiên cứu mới đăng trên tạp chí Neurology, thuốc điều trị RRMS - alemtuzumab- có thể cải thiện tàn phế về thể chất do bệnh gây ra.
Alemtuzumab là thuốc làm thay đổi bệnh (DMD). Chúng thuộc nhóm thuốc điều trị RRMS, làm giảm số lần tái phát cũng như mức độ nghiêm trọng khi tái phát bệnh. Alemtuzumab tiêu diệt tế bào bạch cầu lympho B và T do hệ miễn dịch sản sinh. Chức năng của tế bào B và T là tấn công virút và vi khuẩn trong cơ thể. Tuy nhiên, khi mắc bệnh đa xơ cứng, những tế bào này tấn công bao myelin bao quanh dây thần kinh trong não và tủy sống. Alemtuzumab ngăn ngừa tế bào B và T xâm nhập vào não và tủy sống, do đó không gây thương tổn thương thần kinh.
Trong khi nhiều phương pháp điều trị DMD mang lại nguy cơ đối với sức khỏe, so với các thuốc điều trị MS khác, tác dụng phụ của alemtuzumab là cao và nghiêm trọng nhất. Do vậy, alemtuzumab thường được dùng riêng cho bệnh nhân không đáp ứng tốt với các thuốc điều trị MS khác. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, thuốc được sử dụng tương đối sớm trong quá trình điều trị MS.
Trưởng nhóm nghiên cứu, tiến sĩ Gavin Giovannoni thuộc Trường đại học Mary Queen, London, Anh cho biết “Trong khi nhiều thuốc điều trị MS làm chậm quá trình tàn phế, thì rất ít dữ liệu về khả năng phương pháp điều trị này giúp phục hồi chức năng đã bị mất do MS”.
Các tác giả đã chia những bệnh nhân RRMS không đáp ứng tốt với một hoặc nhiều thuốc điều trị thành 2 nhóm. Nhóm 1 gồm 426 bệnh nhân được điều trị alemtuzumab, nhóm 2 có 202 bệnh nhân dùng interferon beta-1a. Interferon beta làm giảm và ngăn ngừa viêm gây tổn thương dây thần kinh trong MS. Mức độ tàn phế của bệnh nhân được đánh giá khi bắt đầu nghiên cứu và đánh giá lại 3 tháng/lần trong 2 năm.
Khi kết thúc nghiên cứu, các tác giả thấy gần 28% số bệnh nhân dùng alemtuzumab đã cải thiện tét tàn phế ít nhất 1 điểm với thang điểm từ 0-10, so với 15% số bệnh nhân dùng interferon beta-1a. So với interferon beta-1a, bệnh nhân dùng alemtuzumab đã cải thiện điểm kỹ năng tuy duy gấp 2,5 lần. Bệnh nhân dùng alemtuzumab cũng khả năng cải thiện đồng vận (một nhóm các rối loạn ảnh hưởng đến sự phối hợp, cân bằng, và lời nói - cho phép họ để cải thiện khả năng của họ để di chuyển mà không run hay những chuyển động vụng về) gấp 2 lần.
Tác giả kết luận rằng những lợi ích của alemtuzumab cần được xem xét cùng với tác hại của việc sử dụng thuốc, bao gồm nguy cơ của các rối loạn tự miễn nghiêm trọng và hiếm khi gây chết người, cũng như phản ứng khi truyền thuốc.