F-35, F-22 của Mỹ sẽ hiện nguyên hình trước radar mới của Nga, Trung Quốc?

0:00 / 0:00
0:00
F-22 Raptor
F-22 Raptor
TPO - Trong khi Mỹ vẫn là nước dẫn đầu không thể tranh cãi về máy bay chiến đấu tàng hình bao gồm các loại F-35 và F-22 Raptors, có những tuyên bố gần đây nói rằng radar "chống tàng hình" mới của Trung Quốc và hệ thống Struna-1 của Nga có thể dễ dàng phát hiện máy bay tàng hình của Mỹ.

Trung Quốc gần đây đã giới thiệu các radar chống tàng hình SLC-7 và YLC-8E mới của họ.

Nga đã có nhiều kinh nghiệm trong việc phát triển các hệ thống phòng không, bao gồm S-300 và S-400, vốn tự hào có khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo có tầm bắn 3.500 km, với tốc độ 4,8 - 5 km/s.

Đây là một phần không thể thiếu trong hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo của Nga, không thể so sánh với bất kỳ hệ thống phòng thủ nào khác trên toàn cầu. S-400 được cho là có khả năng "chống tàng hình" trong phạm vi 150-400 km bằng cách sử dụng radar toàn cảnh 91N6E và radar Protivnik-GE UHF.

Tuy nhiên, trong kho vũ khí của Nga có thêm một hệ thống khác, được đặt tên là radar sinh học Struna-1 / Barrier-E do công ty cổ phần Almaz-Antey phát triển.

F-35, F-22 của Mỹ sẽ hiện nguyên hình trước radar mới của Nga, Trung Quốc? ảnh 1

Struna-1

Dựa trên công nghệ radar sinh học, biến thể đầu tiên của Struna-1, còn được gọi là 52E6, được hoàn thiện vào năm 1999 và đã được nâng cấp trong nhiều năm với những cải tiến.

Phiên bản Barrier-E lần đầu tiên được trưng bày tại hội chợ quân sự MAKS 2007, một triển lãm hàng không và vũ trụ quốc tế hai năm một lần.

Các radar này, được cho là có khả năng phát hiện các máy bay bộc lộ tín hiệu radar thấp như các hệ thống thế hệ thứ năm, với phạm vi bao phủ hơn 400 km cho phiên bản xuất khẩu, được gọi là Barrier-E. Phiên bản đang sản xuất hiện tại cho các lực lượng vũ trang Nga được đặt tên là 52E6MU.

Nó là một hệ thống radar bao gồm một máy phát và máy thu được đặt cách nhau một khoảng tương đương với khoảng cách mục tiêu dự kiến. Các hệ thống radar thông thường bị giới hạn bởi luật công suất nghịch đảo thứ tư, và khi mục tiêu radar càng đi xa nguồn truyền, cường độ của tín hiệu radar sẽ giảm.

Trong một radar đơn tĩnh thông thường, nơi máy phát và máy thu được đặt ở cùng một vị trí, nó dựa vào sóng radar phản xạ từ máy bay để xác định vị trí của nó.

Tuy nhiên, Struna-1 có thể đặt máy phát và máy thu cách xa tới 50 km và có nhiều năng lượng hơn so với các radar thông thường, đồng thời cho phép phủ sóng nhiều hơn khi nó phát hiện được cả những sóng bị máy bay tàng hình làm chệch hướng.

Thiết lập này được nói là làm tăng tiết diện phản xạ radar của một máy bay lên ba lần. Một đặc điểm chính là các tháp thu / phát radar được sử dụng trong Struna-1 có mức tiêu thụ điện năng thấp và không phát ra nhiều bức xạ nên ít bị các tên lửa chống bức xạ tấn công hơn.

Mạng lưới các mô-đun này được kết nối với hệ thống giám sát trung tâm có thể được đặt cách các tháp một khoảng cách đáng kể, được kết nối bằng các liên kết dữ liệu vi ba.

Tuy nhiên, phạm vi bao phủ của hệ thống radar này theo hình parabol, với độ cao phát hiện thấp - và có thể phát hiện mục tiêu ở độ cao tối đa 7 km do chiều cao tháp nhỏ.

Chiều rộng của vùng phủ sóng một nhịp là từ 1,5 đến 8 km, tùy thuộc vào loại mục tiêu và khoảng cách từ ăng ten phát. Độ cao bao phủ từ 30 m đến 7 km.

Trái với suy nghĩ của nhiều người, khái niệm 'tàng hình' hiện đại thiên về khả năng quan sát thấp hơn là 'vô hình' trước các radar. Phát hiện máy bay tàng hình không phải là không thể, nhưng chắc chắn là khó có thể nếu không có các cải tiến và kỹ thuật mới.

Ngay khi radar phát hiện máy bay, máy bay đánh chặn với cảm biến tìm kiếm hồng ngoại IRST có thể được hướng đến vị trí phù hợp để xác định và bắn hạ mục tiêu.

Trong khi Nga và Trung Quốc gặp khó khăn trong việc chế tạo máy bay thế hệ thứ 5, thì việc họ tập trung chống lại phi đội F-22 / F-35 của Mỹ cũng phụ thuộc vào việc phát triển các hệ thống có khả năng phát hiện và dẫn đường cho máy bay đánh chặn.

Chiến tranh trên không luôn xoay quanh việc ai chống lại ai - công nghệ phòng không so với công nghệ máy bay.

MỚI - NÓNG