Nhưng vấn đề đặt ra: những quả tên lửa không thể phát hiện này có thể kích hoạt một cuộc chiến tranh hạt nhân khi chúng không thể bị đánh chặn, và rồi sẽ có các cuộc trả đũa hạt nhân?
Dự án “tìm cách phát triển các loại thuốc phóng rắn thể có khả năng làm giảm tín hiệu IR [hồng ngoại] trong khi vẫn duy trì hiệu suất tỷ lệ lực đẩy trên khối lượng”, theo đề nghị nghiên cứu từ Cơ quan Phòng thủ Tên lửa Mỹ. “Việc phát hiện các vụ phóng tên lửa và dấu hiệu hoạt động của tên lửa đẩy là những điểm xác định mối đe dọa quan trọng. Vì giám sát IR từ xa thường được sử dụng để phát hiện và theo dõi các vụ phóng tên lửa, nên khả năng tránh bị phát hiện thông qua giảm tín hiệu IR sẽ có lợi cho các nền tảng phòng thủ di động cũng như các phương tiện tấn công được triển khai. "
Theo Forbes, thực tế là tổ chức phòng thủ tên lửa của Mỹ muốn một loại thuốc phóng IR thấp không nhất thiết là việc nham hiểm. Trong khi các tia laser chống tên lửa đang được triển khai, hiện nay hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo của Mỹ - Hệ thống Đánh chặn trên mặt đất và tên lửa Patriot, tên lửa SM-3 và SM-6 của hệ thống Aegis trên biển - dựa vào tên lửa để bắn hạ các tên lửa khác.
Tuy nhiên, tên lửa đánh chặn sử dụng tên lửa đẩy tạo ra nhiều nhiệt và ánh sáng. Thật hợp lý khi cho rằng kẻ thù có thể sử dụng đèn flash hồng ngoại của thiết bị đánh chặn để xác định chính xác và phá hủy các tàu và bệ phóng tên lửa phòng thủ của Mỹ. Ngoài ra, chùm tia hồng ngoại từ tên lửa đánh chặn có khả năng bị phát hiện khi đang bay, tạo cơ hội cho tên lửa tấn công đang đến triển khai mồi nhử hoặc thực hiện hành động lẩn tránh.
Nhưng tên lửa tàng hình có thể gây ra rủi ro thảm khốc hơn nhiều. Răn đe hạt nhân - thứ đã giúp Mỹ và Nga không tiêu diệt lẫn nhau trong 70 năm - dựa trên sự đảm bảo rằng cả hai bên có thể phát hiện cuộc tấn công đầu tiên kịp thời để thực hiện một cuộc tấn công trả đũa. Đây là lý do tại sao Mỹ và Nga - và bây giờ là Trung Quốc - có các vệ tinh trên quỹ đạo được thiết kế để phát hiện dấu hiệu hồng ngoại của một vụ phóng ICBM. Ví dụ, Mỹ duy trì chòm sao của Chương trình Hỗ trợ Quốc phòng gồm các vệ tinh cảnh báo tên lửa, đang được thay thế bằng các vệ tinh Hệ thống Hồng ngoại dựa trên Không gian (SBIRS).
Nhưng nhiên liệu tên lửa chỉ tạo ra một chùm tia hồng ngoại tối thiểu làm tăng khả năng một quốc gia có thể tiến hành một cuộc tấn công hạt nhân bất ngờ bằng tên lửa IR thấp. Giả sử rằng ICBM mất từ 15 đến 30 phút để tới mục tiêu và một đầu đạn lao xuống bầu khí quyển với vận tốc Mach 23, thậm chí một vài phút có thể tạo ra sự khác biệt cho việc liệu người phòng thủ có thể đánh chặn tên lửa đang bay tới hay không, hay thực hiện một cuộc tấn công trả đũa trước khi ICBM của chính họ bị phá hủy.
Việc quân đội Mỹ xác định rằng nhiên liệu tên lửa tàng hình sẽ được sử dụng cho "các phương tiện tấn công được triển khai tiền tuyến" cho thấy Lầu Năm Góc muốn có các tên lửa tấn công mà đối thủ không thể phát hiện được.
Các nhà phê bình lo ngại điều này có thể gây ra hậu quả khôn lường. Brian Weeden, một cựu sĩ quan Không quân Mỹ và là một chuyên gia về chiến tranh vũ trụ, nói: “Mỹ thực sự là quốc gia dựa nhiều nhất vào việc phát hiện tín hiệu IR để cảnh báo chiến lược về các cuộc tấn công hạt nhân và cảnh báo chiến thuật về các cuộc tấn công tên lửa trên chiến trường.
Vì vậy, nếu công nghệ này được phát triển, tôi nghĩ rằng nó thực sự có thể làm tổn hại đến an ninh quốc gia của Mỹ hơn là giúp ích. Và lịch sử cho thấy rằng công nghệ luôn có cơ hội nảy nở mạnh mẽ, đặc biệt nếu nó có giá trị quân sự đáng kể. "
James Acton, nhà vật lý và đồng giám đốc Chương trình Chính sách Hạt nhân tại tổ chức nghiên cứu hòa bình quốc tế Carnegie Endowment for International Peace, tỏ ra nghi ngờ về tính khả thi của nhiên liệu tên lửa có thể giảm thiểu phát thải IR mà không ảnh hưởng đến hiệu suất.
Ông cũng lo ngại rằng nhiên liệu tên lửa tàng hình có thể khiêu khích Nga và Trung Quốc.
Acton nói: “Họ sẽ giải thích đây là một cách để tiến hành các cuộc tấn công phủ đầu chống lại lực lượng hạt nhân của họ. Và thành thật mà nói, tôi không rõ nó sẽ hữu ích cho việc gì khác”.