> Qua sông Lam, vượt Cổng Trời
> Xăng và máu
Tên lửa SAM-3 “Neva 125”. |
Sau loạt bài 4 kỳ Không cứu nguy được khung thành đăng trên Tiền Phong viết về chiến công đập tan cuộc tập kích đường không mang mật danh Linebacker II (Người cứu nguy khung thành) bằng B52 vào Hà Nội, một cuộc điện thoại gọi vào máy của tôi. Nội dung ngắn gọn “Chúng tôi là những người lính SAM-3 muốn được gặp nhà báo”...
Tôi lần tìm đến một ngôi nhà ở đường Xuân Diệu, quận Tây Hồ, Hà Nội. Chủ nhà là ông Hoàng Tích Lạc. Nhà ông Lạc đương có khách. Một đồng đội cũ. Đó là một người ăn vận tươm tất, cà vạt com lê chỉnh tề và... rất khó đoán tuổi.
Tôi lấn bấn trước vẻ bộc bạch thẳng băng của ông Lạc rằng, bài báo của tôi trên Tiền Phong có một chi tiết chưa đúng. Đó là: “có hai trung đoàn SAM-3 thời điểm 12 ngày đêm có mặt tại Hà Nội chứ không phải 2 tiểu đoàn và không phải họ chưa về nước. Tôi là một người lính của 2 trung đoàn ấy!”.
Nhiệm vụ tối mật
Có thể nói ông Lạc, Hoàng Tích Lạc, được may mắn vây bọc trong một gia đình danh giá. Về cụ thân sinh và cả nhạc phụ ông nữa đều có thể tìm thấy nhiều dòng trong Wikipedia.
Hoàng Tích Lạc là con trai thứ 3 của cụ Hoàng Tích Trí, GS BS, Đại biểu QH khóa I, một chuyên gia hàng đầu về ngành vi trùng học, từng học ở Paris sau đó là Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam DCCH từ năm 1946 đến năm 1958 (năm GS mất). Cả 4 người con của cụ Hoàng Tích Trí đều theo ngành Y Dược.
Người chú và một người anh ruột của ông Lạc đều được vinh dự nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhạc phụ ông Lạc là GS BS Thiếu tướng Vũ Văn Cẩn, nguyên Cục trưởng Cục Quân y rồi Bộ trưởng Bộ Y tế. Ông Lạc, sau chiến tranh, nhiều năm là Tổng GĐ Tổng Công ty thiết bị Bộ Y tế.
Tấm giấy khai sinh của Hoàng Tích Lạc cũng khá lạ, Bởi hai người làm cái việc chứng sinh và ký vào giấy là hai danh nhân nước Nam, BS Vũ Đình Tụng và BS Vũ Văn Cẩn!
Được vây bọc một cách may mắn như thế, nhưng năm 1968, như bao chàng trai Hà Nội khác, anh sinh viên Đại học Bách khoa tuổi 20 Hoàng Tích Lạc nhập ngũ.
Ông Lạc (ngoài cùng bên trái), ông Quý (thứ ba từ trái sang) cùng đồng đội bên mộ LS Trần Quốc Dung. |
Có thể nói thời thế đã ưu ái cung đốn cho Quân chủng PK-KQ non trẻ thời điểm những năm giữa 60 ấy những thanh niên ưu tú cả về học vấn lẫn sức khỏe, sớm làm chủ được các loại vũ khí khí tài hiện đại, đặng đương đầu đối chọi với một kẻ thù thông thái về khoản giết người.
Nhiều đợt bổ sung quân cho Quân chủng là kỹ sư, sinh viên của nhiều trường ĐH trong nước và ở nước ngoài về.
Vị khách của ông Lạc mà tôi nói ở trên đây là đại tá Nguyễn Ngọc Quý, nhập ngũ năm 1965 (học cùng lớp ĐHBK với anh hùng phi công Vũ Xuân Thiều. Thêm chi tiết thú vị, ông Quý quê Thái Bình, gọi nhà văn Chu Văn là chú ruột).
Mùa xuân 1972, thiếu úy Nguyễn Ngọc Quý khi đó đang giảng cho khóa 2 đào tạo chuyên ngành tên lửa phòng không cho một đơn vị bộ đội đóng ở gần thị xã Vĩnh Yên thì có chiếc xe con từ Hà Nội lên đón, đi nhận nhiệm vụ đột xuất. (Ông Quý khi đó đã có nhiều năm là cán bộ giảng dạy khoa Tên lửa Học viện Kỹ thuật quân sự).
Thày trò khóa học đều nghĩ thiếu úy Quý đi B. Nhưng về Hà Nội, Quý mới được biết, Ban giám hiệu Học viện cử một số giáo viên thạo tiếng Nga và am hiểu kỹ thuật tên lửa nhập vào 2 Trung đoàn tên lửa của Quân chủng PK-KQ sang Liên Xô học chuyển loại khí tài mới và trực tiếp nhận khí tài về Hà Nội.
Nhiệm vụ ấy được coi là tuyệt mật. Cán bộ chiến sĩ cả 2 trung đoàn không được phép viết thư cho người thân kể cả người nhà. Hoàng Tích Lạc (khi đó là kỹ sư đang công tác tại Viện Y học Hàng không, cũng được điều động gấp về trung đoàn, chủ yếu làm nhiệm vụ phiên dịch) may mắn cùng đơn vị với Nguyễn Ngọc Quý.
Đêm ấy, 2 trung đoàn lèn chặt trên các xe tải quân sự bí mật hành quân ngược Bắc. Vượt biên giới Việt Trung, đến ga Bằng Tường toàn bộ quân phục bỏ lại thay bằng com lê cà vạt.
Tất cả lên tàu hỏa trực chỉ hướng Bắc Kinh. Rồi Bắc Kinh tàu chạy xuyên ngày xuyên đêm thẳng tới Trung tâm huấn luyện tên lửa Sitenchai gần thủ phủ Bacu của Azecbaizan.
Để có được chữ ký trên tên lửa
Đại tá Quý kể lại rành rọt buổi sáng ấy Trung đoàn được diện kiến vị đại tá trưởng Trung tâm cao to có chất giọng sang sảng. Đại tá thẳng băng, đại ý xin chào các chiến sĩ Quân đội NDVN bé nhỏ nhưng anh hùng! Tôi xin nói trước, để làm chủ vũ khí khí tài hiện đại này, các bạn phải mất ít nhất 18 tháng. Nhưng các bạn chỉ yêu cầu có 8 tháng thì thật tình, tôi rất ái ngại. Vậy để hoàn thành nhiệm vụ, các đồng chí phải cố gắng thật cật lực!
Đồng chí thiếu tá, Chính ủy phụ trách khi đó đã đứng lên dõng dạc ngắn gọn dứt khoát rằng Vì Tổ quốc vì miền Nam ruột thịt, không chỉ 8 tháng mà chúng tôi xin quyết tâm hoàn thành trong thời gian ngắn nhất có thể.
Và thế là khởi đầu cho một cuộc đua nước rút. Học ngày học đêm. Học và thực tập mọi nơi, mọi lúc. Tiếng là được sang học nước ngoài nhưng cán bộ chiến sĩ Trung đoàn không được đi tham qua ngắm ngó đâu cả.
Vì thế cánh phiên dịch như Hoàng Tích Lạc phải bở cả hơi tai, trừ mỗi khi ngủ kể cả lúc ăn, ngày đêm theo sát giảng viên và đồng đội.
“... Vâng, mãi đến khi ấy, chúng tôi mới được tận mắt tận tay tiếp cận với loại vũ khí khí tài đặc biệt có tên là SAM-3 này”.
Vẫn câu chuyện của ông Lạc, ông Quý. Qua những tháng miệt mài ngày đêm khổ luyện, các học viên đã ra trường bắn thực tập bắn đạn thật, tập bắn mục tiêu giả.
Tin vui loang nhanh, sau khi nghiệm thu khí tài và kỹ thuật, bạn đã đồng ý cho ký kết việc tiếp nhận trang bị.
Một cảm giác bồi hồi sung sướng khi thiếu úy Quý được sĩ quan điều khiển của bạn mời ký vào một vị trí dễ nhận trên mặt một thiết bị.
Các giáo viên bắt tay, vỗ vai Quý nói rằng chữ ký trên khí tài này sẽ theo Quý và các sĩ quan về trận địa tên lửa phòng không SAM-3 ở Bắc Việt Nam!
Tiếc nuối
Đường về như ngắn hơn. Khi đó ai cũng nghĩ, chỉ khoảng nửa tháng nữa thôi là những quả tên lửa SAM-3 và toàn bộ khí tài theo đường sắt Liên vận sẽ về đến ga Đông Anh.
Đêm 8-12-1972, trong đội hình của 2 Trung đoàn tên lửa SAM-3, tiểu đội của Quý, Lạc được chuyển về đóng quân ở huyện Đông Anh, xã Vân Nội Uy Nỗ. Lệnh trên cấm trại để đảm bảo bí mật. Không khí trận mạc đã phảng phất đâu đây.
Nóng ruột nhất có lẽ là thiếu úy Trần Quốc Dung. Dung từng tốt nghiệp xuất sắc khoa Vật lý lý thuyết, trường ĐH Lomonoxov, về nước mới nhập ngũ.
Biết những quả đạn SAM-3 chả thể có cánh mà bay về nhưng Dung cứ nóng ruột đòi cấp trên phải đưa tiểu đội về một đơn vị chiến đấu. Một tin làm cả tiểu đội vui mừng.
Dung vừa nhận được tin vợ đẻ con trai. Một cuộc liên hoan nhẹ của cả tiểu đội chiều 18-12 vừa kết thúc thì cả một vùng ngoại thành như trời long đất lở khởi đầu cho cuộc tập kích B52!
Ngồi trong căn hầm chữ A, cả tiểu đội sục sôi những bàn luận cùng tâm trạng. Có những lúc họ nhoài lên nóc hầm. Ngó những vệt SAM-2 đỏ khé vút lên, Quý rên lên Trời ơi giá như lúc này có bộ khí tài PK và tổ hợp tên lửa hai cần mà về kịp thì bọn B52 chúng mày còn khốn! Tiếng Sơn, Oanh chúng mày tính xem, trần bay trên dưới 10 km, xác suất tiêu diệt 2 quả đã tới trên 0,82 thì B52 cứ gọi là rụng như sung.
Tiếng Huỳnh tao cho là cấp trên đã tính trước nên trên mới điều chúng mình về gấp như thế này. Ai đó thở dài đã quá hạn nửa tháng thế mà tàu hỏa chở SAM-3 qua đất Trung Quốc không biết trục trặc chuyện gì? Liệu có phải là do cuộc gặp Thượng Hải?
vv...
Day dứt bực bội... Tâm trạng ấy đeo bám những người lính SAM-3 những ngày kế tiếp, trời Hà Nội ầm vang, mịt mù khói đạn. Ra trận mà hỡi ôi, không có súng!
Ông Quý kể, gần sáng 21-12 đột nhiên tiếng nổ dữ dằn cùng những vầng sáng chói lòa kế tiếp. Đang nằm ôm thằng cu chủ nhà, tôi bật dậy chạy ra sân kho nơi gần căn hầm chữ A mà tiểu đội tôi ẩn. Căn hầm đã sập.
Lạc đang bế Dung nhoài ra, máu me đẫm cả người. Hai bàn chân thò ra cửa hầm. Hối hả moi được ra thì là Sơn. Nhưng Sơn đã tắt thở từ bao giờ. Cả bọn thi nhau hô hấp nhưng hoàn toàn vô vọng!
5 giờ chiều ngày 21-12-1972 ảm đạm đó, anh em tiểu đội chúng tôi gồm Huynh, Lạc, Hiển, Từ và tôi lê những bước nặng nề tiễn đưa 7 anh em những Trần Quốc Dung, Oanh, Sơn, Tuyển, Lâm. Mai... đi an táng tại nghĩa trang xã Uy Nỗ, Đông Anh.
Ông Lạc thở dài, gọi điện cho anh chuyện nhỏ không phải là việc nói lại cho đúng, không phải 2 tiểu đoàn mà là 2 trung đoàn đã về nước thời điểm đó mà là để xẻ chia cảm giác ân hận, nuối tiếc đã đeo bám chúng tôi suốt 40 năm nay.
Nếu như SAM-3 và khí tài ngày ấy về kịp thì có lẽ cục diện chiến dịch Linebacker II đã khác! Với SAM-3, cuộc đánh trả và chiến thắng B52 sẽ còn ngoạn mục hơn. Và có lẽ, những đồng đội tôi dẫu phải hy sinh nhưng ở một tư thế khác!
Và như thế, từ năm 1972, trong các cuộc chiến tranh vệ quốc, chưa có một quả đạn SAM- 3 nào được phóng lên! Cơ số hơn 200 quả tên lửa SAM-3 về trễ ngày ấy, 40 năm nay vẫn nằm trong kho với chế độ bảo dưỡng.
Chia tay, tôi biết thêm, sáng 21-12, mấy anh em còn lại trong tiểu đội sẽ đến nghĩa trang Uy Nỗ thắp cho Trần Quốc Dung và anh em nén hương. Nghĩa trang chỉ còn phần mộ của Trần Quốc Dung. Những phần mộ còn lại trước đó đã được di dời về quê.
Lệ thắp hương ấy, 40 năm rồi, năm nào cũng vậy vào đúng ngày 21-12.
Từ SAM-2 đến SAM-3 Câu chuyện của các cựu binh tên lửa Hoàng Tích Lạc, Nguyễn Ngọc Quý chừng như lạc sang trận đồ bát quái về thứ vũ khí mà ông Quý nói là hiện tại vẫn rất đắc dụng này! Những thông số của một đại tá giảng viên Khoa tên lửa của Học Viện Quân sự quả là thuyết phục! Ngày 1-5-1960, SAM- 2 được sử dụng trong tác chiến lần đầu tiên tại Liên Xô. Tại tỉnh Sverdlovsk của Liên Xô, đơn vị tên lửa SAM-2 đó bắn rơi một chiếc máy bay do thám U2 bay ở tầm rất cao của Hoa Kỳ, bắt sống phi công Francis Gary Powers. Năm 1958, hệ thống SAM-2 được Liên Xô viện trợ cho Trung Quốc. Ngày 7 - 10 - 1961, đơn vị tên lửa SAM-2 của Trung Quốc tại Hạ Môn bắn rơi một máy bay trinh sát RB-57 của Không quân Đài Loan. Trong năm tiếp theo, Đài Loan đã phải chấm dứt các chuyến bay trinh sát vào vùng trời Trung Quốc. Tháng 10 năm 1962, khủng hoảng tên lửa tại Cu Ba, các đơn vị SAM-2 do chuyên gia Liên Xô điều khiển cũng bắn rơi một máy bay U-2 của Hoa Kỳ. Tên lửa SAM-2 có mặt tại các trận địa phòng không miền Bắc sau ngày 27-3-1965 Liên Xô và Việt Nam DCCH ký hiệp nghị viện trợ quân sự; trong đó, Liên Xô viện trợ cho Việt Nam 4,5 cơ số tên lửa SAM-2 (54 quả) cùng toàn bộ khí tài, trang bị kỹ thuật kèm theo để thành lập 2 trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên của QĐNDVN. Trong chiến tranh, tên lửa SAM-2 là một trong những vũ khí phòng không chủ lực để bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng và một số trọng điểm khác. Ngày 24-7-1965, Tiểu đoàn tên lửa 63, 64 của Trung đoàn tên lửa 236 (Đoàn Sông Đà) trong trận đầu xuất quân có sự tham gia của chuyên gia Liên Xô do các thiếu tá Boris Mojayev và Ivan Ylinysh hướng dẫn điều khiển đã bắn rơi tại chỗ một chiếc F-4C trên vùng trời Hà Tây - Hòa Bình. Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc 1965-1968 và 1972, các đơn vị tên lửa SAM-2 đã đánh 3.542 trận, có 588 trận đánh ban đêm, phóng 5.885 quả đạn, bắn rơi 788 máy bay Mỹ, 366 chiếc rơi tại chỗ; trong đó có 43 máy bay B52; bình quân 7,1 quả đạn diệt được một máy bay. Cũng cần nói thêm, sở dĩ Mỹ có những cải tiến đối phó với SAM-2 gây rất nhiều khó khăn và tổn thất cho bộ đội phòng không của ta duyên do khoảng năm 1967, quân đội Ai Cập không chịu nổi cuộc tấn công của các binh đoàn thiết giáp Israel đã tháo chạy khỏi sa mạc Sinai bỏ lại hơn 20 bộ khí tài SAM-2 (C-75) do Liên Xô viện trợ. Từ những thứ chiến lợi phẩm đó, rất thính nhạy, guồng máy kỹ thuật quân sự của Lầu Năm Góc đã hoạt động tối đa. Chỉ mấy tháng sau, ngày 15-12-1967, 44 phi vụ máy bay cường kích Mỹ đánh phá cầu Đuống. Các tiểu đoàn tên lửa phòng không bảo vệ Hà Nội đã phóng lên 8 quả đạn đều không điều khiển được, hoặc rơi xuống đất, hoặc vượt mục tiêu tự huỷ. Sở dĩ có hiện tượng trên là do không quân Hoa Kỳ đã chế ra máy phát nhiễu ALQ-71 gây nhiễu toàn bộ rãnh sóng điều khiển đạn và rãnh sóng xung trả lời của đạn (gọi chung là nhiễu rãnh đạn). Nhưng vỏ quýt dày đã có móng tay nhọn, bộ đội phòng không Việt Nam phối hợp với các chuyên gia Xô Viết đã phát hiện ra dải tần số và cường độ của loại nhiễu này. Ta đã khắc phục bằng phương pháp át nhiễu, nâng công suất sóng trả lời của đạn và sóng điều khiển đạn lên gấp ba lần, đủ sức vượt qua cường độ nhiễu. Tiên liệu Mỹ chỉ thua trên bầu trời Hà Nội khi chỉ dùng át chủ bài B52 đánh Hà Nội của Bác Hồ đã khiến Quân chủng PK-KQ có thời gian chuẩn bị. Để đối phó hữu hiệu với B52 ngoài SAM-2, liệu có muộn không khi 2 trung đoàn của Quân chủng sang Liên Xô thời điểm đó? Có lẽ chả nên có câu hỏi đại loại như thế vào thời điểm nhạy cảm ấy khi mà mọi thứ đương nằm ngoài khả năng lẫn tầm với. Nhưng dù sao hai trung đoàn của Quân chủng đã có mặt ở Sitencha học SAM-3... Chuyện với hai vị cựu binh tên lửa, biết thêm một điều thú vị! Bên phương Tây trần thùi lụi gọi thứ vũ khí đất đối không này là SAM (Surface to Air Missle). Nhưng người Nga đặt cho thứ tên lửa do Liên Xô sản xuất bắt đầu bằng cái tên thơ mộng - tên những dòng sông. Chẳng hạn như SAM-2 là Đơvina-75 ( Đơvina - tên gọi một dòng sông); Tương tự SAM-3 là Neva 125. Cũng theo chuyên gia Nguyễn Ngọc Quý, SAM-3 là hệ thống tên lửa đất đối không của Liên Xô nhằm bổ sung cho SAM-2. Nếu chép ra những thông số kỹ thuật e mất thời giờ của bạn đọc. Tóm lại SAM-3 có nhiều tính năng vượt trội so với SAM-2. Tầm bắn hiệu quả hơn, độ cao tối đa lớn hơn so với các loại tên lửa thế hệ trước, cơ động dễ dàng hơn, có hiệu quả hơn khi chống lại các mục tiêu di động. Nó cũng có khả năng tấn công các mục tiêu bay thấp hơn. Đặc biệt nó có khả năng chống lại hệ thống đánh lạc hướng điện tử tốt hơn so với thế hệ SAM-2 vv... SAM-3 được triển khai lần đầu vào khoảng thời gian 1961-1964 xung quanh Moskva nhằm bổ sung vào hệ thống phòng không. SAM-3 được liên tục cải tạo. Sau đó một phiên bản nâng cấp của hệ thống có tên là S-125M “Neva-M” và sau này là S-125M1 “Neva-M1” đã được chế tạo. |