Hàng loạt vụ “đầu độc” thực phẩm như cho lươn ăn thuốc tránh thai, nuôi heo bằng chất tạo nạc… đang làm ngành chăn nuôi và ngành thực phẩm chết ngay trên sân nhà. Chính người tiêu dùng (NTD) trong nước đang có xu hướng sợ dùng thực phẩm trong nước và đang tìm hàng nhập khẩu để thay thế như thịt bò Úc, gà nhập khẩu…
Mất hết niềm tin
Thực phẩm bẩn chứa chất cấm độc hại vài năm trở lại đây đang là vấn đề gây nhiều bức xúc lẫn lo lắng trong dư luận. Thông tin thịt heo có chất tạo nạc tràn lan trên thị trường khiến NTD hoang mang bởi trong cơ cấu các loại thịt sử dụng trong bữa ăn người Việt thì thịt heo chiếm hơn 70%.
Đứng trước ma trận thực phẩm bẩn tràn lan, nhiều NTD hiện nay đang có xu hướng quay sang mua các thực phẩm hữu cơ, có chứng nhận an toàn dù giá có thể đắt hơn nhiều lần. Đặc biệt, NTD trong nước đang có thói quen mua hàng ngoại nhập vì họ tin rằng hàng đó được kiểm dịch chặt chẽ và các nước xuất khẩu này uy tín.
Chị Phương Thảo (quận 3, TP.HCM) cho biết từ khi chị mang bầu, đi mua thực phẩm là thấy lo sợ về chất lượng ảnh hưởng tới con cái mình sau này. Vì vậy, chị chuyển sang mua thực phẩm nhập khẩu từ các nước như Mỹ, Nhật, Canada, Úc, New Zealand… Đa phần chỉ mua củ, quả ngoại nhập, ăn bò Úc. Chỉ có rau xanh chị nói nhập khẩu không có nên phải mua ở các cửa hàng rau hữu cơ (không dùng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học), giá cao gấp 3-8 lần rau thường.
Theo ông Minh, chủ một cửa hàng thực phẩm hữu cơ ở quận Phú Nhuận (TP.HCM), NTD ngày càng tìm đến cửa hàng ông nhiều hơn trước đây. Hàng nhập khẩu có chứng nhận hữu cơ được nhiều người lựa chọn. Khách hàng tìm hiểu thông tin rất kỹ về trang trại trồng rau quả hữu cơ của cửa hàng, đối tác chứng nhận, sản phẩm nhập khẩu. Họ quan tâm đến chất lượng, ăn ít, chấp nhận giá cao nhưng an toàn.
Ông Phạm Đức Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, cho biết xu hướng mua hàng ngoại nhập đang ngày càng nhiều. Cứ nhìn vào sản lượng nhập khẩu bò Úc tăng lên theo từng năm. Thịt gà Mỹ giá rẻ bất thường nhập về số lượng lớn cũng hoành hành thị trường khiến người nuôi gà trong nước lỗ nặng.
Thêm vào đó là thịt heo, bò, gà của Pháp, Ba Lan, Canada và một số nước châu Âu cũng đang xúc tiến việc xuất khẩu sang Việt Nam trong thời gian tới. Chứng tỏ các nhà xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đã nhìn thấy nhu cầu tiêu thụ lớn của thị trường Việt Nam.
“Không phải đợi đến khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA), TPP thì hàng ngoại giá rẻ mới có cơ hội tràn vào cạnh tranh, đè bẹp hàng trong nước. Vài năm trở lại đây, chính NTD đã dần quay lưng với thực phẩm trong nước. Thực phẩm bẩn làm NTD lo sợ, họ mua hàng nhập khẩu cho an toàn, thấy rau quả trong nước sợ chẳng khác gì sợ hàng Trung Quốc” - ông Bình chia sẻ.
Mất thị trường xuất khẩu
GS Võ Tòng Xuân, chuyên gia lĩnh vực nông nghiệp, cho biết những vụ “đầu độc” thực phẩm không chỉ ảnh hưởng tới NTD, làm loạn thị trường trong nước mà ảnh hưởng lớn đến các ngành hàng xuất khẩu.
GS Xuân cho rằng hàng xuất khẩu làm tốt chất lượng nhưng “con sâu làm rầu nồi canh”, những thông tin xấu trong nước sẽ lọt tới tai các nhà nhập khẩu, nhà quản lý và NTD ở các thị trường nhập khẩu hàng Việt Nam. Điều này ảnh hưởng rất lớn, như thông tin trà dùng nhiều thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng cao, trái cây, cá nuôi dùng nhiều thuốc kháng sinh… sau khi trong nước phát hiện. Lập tức truyền thông nước ngoài đưa tin cơ quan quản lý kiểm chặt, dựng hàng rào kỹ thuật với tiêu chí khắt khe hơn khiến việc xuất khẩu khó khăn hơn.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), lo ngại thực phẩm bẩn không chỉ ảnh hưởng uy tín, chất lượng hàng xuất khẩu mà có thể dẫn đến mất thị trường xuất khẩu đối với nhiều ngành hàng.
Con tôm xuất khẩu sang Trung Quốc quá dễ dãi về chất lượng khiến thương lái, thậm chí doanh nghiệp (DN) tổ chức bơm tạp chất vào tôm để tăng trọng lượng kiếm lợi nhuận khổng lồ. Nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu những thị trường khác bị thiếu trầm trọng vì người nuôi tập trung bán cho thương lái xuất sang Trung Quốc được giá hơn.
Theo ông Hòe, thiếu nguyên liệu, nguyên liệu kém chất lượng khiến DN không đáp ứng được những hợp đồng lớn, mất dần thị trường. Chưa kể những thị trường khó tính, họ kiểm chặt nếu có lô hàng nào vi phạm nhiều lần sẽ tạm ngưng nhập khẩu, thiệt hại cho cả ngành.
GS VÕ TÒNG XUÂN, chuyên gia nông nghiệp: “Xử” chất tạo nạc như… cấm đốt pháo
Trách người nuôi, người trồng, trách thương lái, tiểu thương vì lợi nhuận sẵn sàng “đầu độc” thực phẩm, “đầu độc” đồng loại nhưng cũng nên nói đến sự buông lỏng quản lý của các cơ quan nhà nước. Thuốc bảo vệ thực vật không rõ nguồn gốc, các chất cấm trong chăn nuôi mua bán dễ dàng, người dân thì thiếu hiểu biết, họ dùng vô tội vạ miễn tăng được năng suất, sản lượng và có lợi thì họ làm.
Tôi nghĩ như cấm đốt pháo ngày xưa, Bộ Công an chỉ đạo giám đốc công an các tỉnh, thành nếu phát hiện đốt pháo ở tỉnh nào sẽ chế tài giám đốc công an tỉnh đó. Khi đó giám đốc công an tỉnh lại chỉ đạo xuống công an huyện, công an huyện lại chỉ đạo công an xã nếu có tiếng pháo ở địa phương nào sẽ xử phạt. Chuyện xử phạt heo chứa chất tạo nạc cũng phải như vậy, cần có sự chỉ đạo quyết liệt với chế tài đối với các cơ quan chức năng từ cấp tỉnh, thành đến quận, huyện tới phường, xã và xuống từng ấp.
TS VÕ MAI, Phó Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam: Hợp tác hóa để quản lý chất lượng
So với Thái Lan, nông nghiệp Việt Nam còn thua một quãng đường rất xa. Người Thái làm nông nghiệp theo tổ, nhóm, tư tưởng nông dân của họ làm diện tích lớn chứ không phải manh mún, nhỏ lẻ như nông dân Việt Nam. Hoạt động của HTX ở họ rất mạnh, được chính phủ hỗ trợ nhiều chính sách tốt về vốn, nghiên cứu giống, công nghệ… nên sản phẩm giá thành rẻ, đẹp, lại ngon.
Việc xử lý sau thu hoạch của họ cũng hơn hẳn Việt Nam. Sản xuất nông nghiệp, cụ thể là sản xuất rau quả ở Việt Nam phải thay đổi. Phải đẩy mạnh phát triển các hình thức liên kết sản xuất như HTX hay tổ hợp tác. Qua đó giảm giá thành sản xuất và nâng cao năng suất, chất lượng cho sản phẩm.
Hợp tác hóa mới có thể thuyết phục, đào tạo nông dân kiểm soát được thuốc bảo vệ thực vật, loại bỏ tình trạng thương lái ép nông dân dùng chất cấm. Khi đó mới giảm dần thực trạng thúc ép trái cây chín bằng hóa chất độc hại, trái cây chứa nhiều dư lượng thuốc trừ sâu…
Không phải Việt Nam không làm được rau quả chất lượng, ổn định đầu ra mà mới chỉ có 1-2 mô hình HTX làm hiệu quả, ổn định đầu ra xuất khẩu, xây dựng thương hiệu. Cái thiếu là nhân rộng mô hình liên kết HTX, để làm được cần có sự chỉ đạo đặt ra mục tiêu của cơ quan quản lý nhà nước như mỗi địa phương cần có vài mô hình liên kết HTX, có chính sách hỗ trợ, tìm kiếm DN liên kết, tìm đầu ra, từ đó nhân rộng phát triển.