Ông Hoàng thơ tình tuổi Tuất

Ông Hoàng thơ tình tuổi Tuất
TP - Trong tập “99 tình khúc”, Hoàng Cầm đã dành trọn một trang để “Tâm hương” và “Dâng” đến 13 “Nàng” mà ông cho rằng đó là “những hồn người đã gợi ra nhịp điệu, âm thanh và đường nét sắc màu trong 99 tình khúc”.
Ông Hoàng thơ tình tuổi Tuất ảnh 1
Hoàng Cầm với con gái Kiều Loan bên sông Đuống;  Ảnh: N.Đ.Toán

Trong 13 “Nàng”, có 9 nàng đã hiện diện bằng tên rõ ràng nhưng có tên rõ ràng ấy vẫn chưa phải tên thật của giai nhân bởi những “bí mật khó nói” của chuyện tình.

Cũng vì những “bí mật khó nói” ấy mà có 4 “Nàng” chỉ được ông để hiện diện bằng tên viết tắt. Ông đề là “Dâng”.

Chị Vinh - Kể từ 1934
Chị Nghĩa - Kể từ 1936
Phương Tuyết - Kể từ 1940
Chị Bắc - Kể từ 1942
Tuyết Khanh - Kể từ 1946
Minh Xuân - Kể từ 1950
Lê Hoàng Yến - Kể từ 1955
Vương Thanh Yến - Kể từ 1967
Phương Dung - Kể từ 1976
Ph.Q - Kể từ 1990
B.Ng - Kể từ 1991
H.Ph - Kể từ 1992
Đ.Đ - Kể từ 1993

13 “Nàng” này đã chia thơ tình Hoàng Cầm ra làm 4 thời:

Thời I – Chị và em
Thời II – Em và anh
Thời III – Xưa và nay
Thời IV – Có và không

Trong 13 “Nàng”, có “Nàng” đã bước vào cõi vĩnh hằng, có “Nàng” đang còn thầm thương trộm nhớ “Chàng” trên dương thế. Nhưng chắc chắn thơ tình Hoàng Cầm làm tặng các “Nàng” sẽ đi vào cõi bất tử trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Có hai “Nàng” đã là vợ của “Chàng”.

Tuyết Khanh thì sinh hạ cho chàng một ái nữ Kiều Loan bằng xương bằng thịt để kỷ niệm ngày “Chàng” và “Nàng” cùng tập “Kiều Loan” vở kịch thơ mà chính “Nàng” thủ vai Kiều Loan.

Vũ Hoàng Chương còn đem lòng yêu nàng để diễn ra một cuộc tình tay ba có một không hai trong lịch sử kịch thơ Việt Nam. Lê Hoàng Yến thì sinh hạ hai cậu con trai hiện đang phụng dưỡng “Chàng” ở căn nhà số 43 Lý Quốc Sư - Hà Nội.

Người vợ đầu tiên của Hoàng Cầm là bà Hoàng Thị Hoàn. Bà Hoàn thành bà Hoàng Cầm là do yêu cầu của gia đình Hoàng Cầm. Bởi vậy, bà chỉ sinh hạ cho Hoàng Cầm một trai, một gái. Con trai đầu của Hoàng Cầm là nhà báo Hoàng Kỳ.

Thứ nữ là nghệ sĩ kịch Hoàng Yến tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh đã sớm lìa đời. Bà Hoàn chỉ sinh con cho Hoàng Cầm mà không sinh thơ cho Hoàng Cầm như bà Tuyết Khanh và bà Lê Hoàng Yến. Có điều khi là vợ Hoàng Cầm, bà Hoàn vẫn còn là một thiếu nữ.

Còn bà Tuyết Khanh và bà Lê Hoàng Yến khi là vợ Hoàng Cầm thì đã là thiếu phụ. Bà Tuyết Khanh hiện đang ở Mỹ cùng con gái Kiều Loan. Còn bà Lê Hoàng Yến thì đã mất sau khi Hoàng Cầm không bị tạm giữ ít lâu.

Trong 3 người vợ bà Lê Hoàng Yến cùng chồng chịu đựng bao thăng trầm suốt ba mươi năm có lẻ (từ 1955 cho đến khi bà mất năm 1985) và là người dinh dưỡng nguồn thơ cho Hoàng Cầm mà trong đó có “Về Kinh Bắc” bất hủ.

Chuyện tình của Hoàng Cầm chắc dài khôn xiết và sẽ rất ly kỳ khi nghe chính ông kể. Nó tạo nên thế giới thơ tình của Hoàng Cầm vừa riêng biệt, vừa độc đáo. Sau cái thời “Chị và em” với chị Vinh “Diêu bông” và chị Nghĩa “tam cúc”, tuy đã lấy vợ nhưng do đang học ở Hà Nội, cậu học trò tú tài Hoàng Cầm vẫn có một mối tình với cô gái nhảy Phương Tuyết.

 “Nàng” đã từng nuôi dưỡng chàng đèn sách suốt nửa năm ròng. Có vẻ như “Cột đèn phố Zét hẹn duyên Tê” trong bài “Bênh” thì phải. Nhân vật “chị Bắc” vừa gây ra nhiều dư luận cũng là một bóng dáng “Kiều Loan” ở Bắc Giang. Đến “Kiều Loan” ở Hà Nội – bà Tuyết Khanh – thì cuộc đời Hoàng Cầm bắt đầu “bẻ ghi” sang một đường ray khác.

Khi ấy, bà Hoàn đã mất, còn Hoàng Cầm và bà Tuyết Khanh thì tham gia văn công quân đội. Nhờ có bà Tuyết Khanh mà Hoàng Cầm đã có thời cơ về “Bên kia sông Đuống” hào sảng rất trữ tình: “Em ơi! Buồn làm chi – Anh đưa em về sông Đuống – Ngày xưa cát trắng phẳng lì”.

Sinh hạ được Kiều Loan, bà Tuyết Khanh phải bế con về Hải Phòng để nuôi dưỡng và chờ ngày thắng lợi đón chồng trở về. Nhưng sức chịu đựng của người đàn bà cũng chỉ có hạn. Sau mấy năm, trước một cảnh ngộ éo le, bà đã đành bước nữa rồi cùng con riêng và chồng vào Nam hồi 1954.

Ở lại chiến khu đến năm 1950, Hoàng Cầm đã gặp một thiếu nữ tài sắc tên là Minh Xuân. Khi ấy, Minh Xuân đang ở trong một hoàn cảnh trớ trêu, bà bị ép lấy một cán bộ chỉ huy hơi “xấu trai” một tý. Bà không chịu. Cảm thương tình cảnh đó, song chiến dịch biên giới đã khiến họ lạc nhau.

Mãi sau, khi Hoàng Cầm gặp một người bạn thì mới được nghe câu chuyện tang thương về giai nhân bạc mệnh này. Không có Hoàng Cầm ở bên, “Nàng” vẫn tiếp tục bị ép cho tới khi không chịu nổi. “Nàng” đành trẫm mình xuống dòng suối. Thi hài “Nàng” đã bị nước cuốn đi cách nơi quyên sinh tới gần chục cây số.

Hòa bình lập lại ít lâu, Hoàng Cầm trở thành người đàn ông có ba con mà lại không có… vợ. Mối tình của ông với bà Lê Hoàng Yến cũng là một giai thoại lãng mạn. Cả hai đã có những đứa con riêng của mình.

Tình yêu đã đưa họ đến với nhau, xây nên một tổ ấm, để rồi sinh ra những đứa con của… chúng ta. Cái tổ ấm ấy quan trọng biết bao với Hoàng Cầm trước những thực tế khắc nghiệt mà ông đang phải chịu đựng.

Hoàng Cầm sống rất thật trong mơ mộng và yêu cũng rất thật trong mộng mơ. Ông rất tâm đắc câu thơ trong bài “Ghi ở Kinh Bắc” tôi dành tặng ông: “Những mối tình suốt đời luống cuống”.

Yêu dại khờ, nồng nhiệt, cuống quít như Hoàng Cầm quả là cực hiếm. Có như vậy mới có một Hoàng Cầm - ông hoàng thơ tình. Cứ đọc “99 tình khúc” là thấy đủ những sắc độ ái ân của Hoàng Cầm. Còn muốn biết chi tiết những cuộc tình đó, có lẽ phải đọc hồi ký Hoàng Cầm mới thấy đủ.

Hồi Tết Nhâm Ngọ 2002, Hoàng Cầm bước vào tuổi “bát tuần”. Ông ngỏ ý với tôi rằng có một câu đối toàn vần “đ” nói về thân phận ông mà lâu nay, chưa có ai đối cho đúng với ý mà ông đã giãi bày: “Đủng đỉnh đường đèo đi đến đỉnh - Đã đành đơn độc đá đừng đeo”.

Mừng ông vào tuổi “bát tuần” và nhớ ra ông sinh năm 1922 là Năm Nhâm Tuất mang mệnh Dương Đại Hải Thủy, đúng giao thừa, tôi đã gọi dây nói đối câu đối trên mừng thọ ông: “Băng băng biển biếc bước bên băng - Bì bõm bọt bèo bìm bám bíu”. Ông hoàng thơ tình cười vang trong máy.

MỚI - NÓNG