Điều trị ung thư vú tại Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn
Ở nước ta, hoạt động tuyên truyền và khám sàng lọc ung thư vú đã có nhưng còn nhỏ lẻ tại một số tỉnh, thành phố lớn nên chưa tiếp cận với tất cả chị em phụ nữ trên toàn quốc. Về phạm vi bao phủ các chương trình sàng lọc ở Việt Nam, PGS.TS Trần Thị Thanh Hương, Phó Viện Trưởng Viện ung thư Quốc gia chia sẻ dù hiện tại đã có các kế hoạch kiểm soát ung thư nhưng chương trình kiểm soát ung thư một cách chuyên biệt vẫn chưa có. “Vì chưa có một chương trình chuyên biệt nên chúng ta cũng không chưa thể huy động được nguồn lực từ tất cả các ban ngành đoàn thể các tổ chức xã hội cũng như là chúng ta chưa thể có đánh giá về lâu dài và hiệu quả các chương trình này”, bà Thanh Hương cho biết. Đây cũng là nguyên nhân khiến tỉ lệ chẩn đoán giai đoạn muộn còn cao, tạo gánh nặng lên hệ thống bệnh viện tuyến cuối tại các thành phố lớn.
Bên cạnh tình trạng các bệnh viện tuyến trên luôn ở trạng thái quá tải, thì Việt Nam cũng thuộc top dưới trong việc sàng lọc phát hiện sớm ung thư vú cùng Indonesia và Philipines theo báo cáo của The Economist Intelligence Unit được Roche tài trợ. Thực tế là nước ta thiếu chụp nhũ ảnh để chẩn đoán sớm tại tuyến chăm sóc y tế ban đầu và cung cấp việc khám tuyến vú lâm sàng; tổng lượng máy xạ trị thực tế so với quy mô dân số còn chưa đáp ứng tốt.
Trong điều trị, dữ liệu Viện ung thư quốc gia (2016-2018) cũng chỉ ra: bệnh nhân ung thư vú nói chung và phân nhóm bệnh nhân có HER2 dương tính được chẩn đoán và điều trị sớm bằng các liệu pháp tiên tiến mới chỉ đạt 8%. Nguyên nhân bởi việc điều trị cho bệnh nhân ung thư vú đòi hỏi phải có một hệ thống tốt, bao gồm cả yếu tố chuyên môn và trang bị kỹ thuật hiện đại. Hệ thống bệnh viện có khả năng điều trị ung thư vú đang tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM với 2 đơn vị hàng đầu là Bệnh viện K và Bệnh viện Ung bướu TP.HCM. Tuy nhiên, cả 2 Bệnh viẹn đều đang trong tình trạng quá tải. Điều này không chỉ làm giảm tỷ lệ bệnh nhân tiếp cận đến các liệu pháp tiên tiến mà còn gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng điều trị.
Hợp tác công - tư giữa các bên hữu quan cần triển khai mạnh mẽ
PGS.TS Nguyễn Thị Xuyên, Chủ tịch Tổng Hội y học Việt Nam nhận định, đề án tăng cường tiếp cận toàn diện ung thư là đề án hết sức có ý nghĩa với các giải pháp và phương pháp tiếp cận cho bệnh nhân một cách toàn diện và phù hợp. Trong đó, mô hình hợp tác công tư được xem là “chìa khoá” để giảm bớt gánh nặng ung thư.
Với hợp tác công tư các tổ chức hay doanh nghiệp tư nhân có thể tham gia vào rất nhiều các hoạt động khác nhau như khám sàng lọc, chẩn đoán sớm ung thư hay thực hiện các nghiên cứu khoa học hỗ trợ cho bệnh nhân. Từ đó cố gắng giảm chi phí để người bệnh có thể tiếp cận các loại thuốc điều trị tốt hơn.
Các bên gắn kết chặt chẽ, tham gia hỗ trợ lẫn nhau, tận dụng bổ sung các nguồn lực đa chiều: từ nhà nước, từ tư nhân, cũng như cá nhân người bệnh. Những chương trình nâng cao nhận thức và khám sàng lọc ung thư vú miễn phí cho phụ nữ trong độ tuổi nguy cơ do Quỹ Ngày mai tươi sáng tổ chức thường niên từ năm 2013 với sự đồng hành của Roche đã khám sàng lọc cho 31.733 chị em, phát hiện sớm 27 trường hợp ung thư vú và 132 trường hợp nghi ngờ ung thư cần theo dõi thường xuyên. Những chương trình này cần được nhân rộng và mở rộng quy mô cũng như chiều sâu, tác động trên nhiều lĩnh vực trong suốt quá trình điều trị ung thư vú. Hợp tác công tư có thể giúp tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng và tăng cường năng lực tầm soát, chẩn đoán, điều trị ung thư vú.
Sự hợp tác, chung tay giữa các bên hữu quan là điểm mấu chốt, nên được triển khai và hoạch định một cách đồng bộ. Chỉ như vậy, mới hạn chế được nguy cơ mắc ung thư ngay từ đầu bằng cách tăng cường nhận thức về bệnh, tăng cơ hội tiếp cận với các phương pháp điều trị tiên tiến với chi phí tốt hơn, cải thiện chất lượng sống. Đây là xu hướng tất yếu và cần được triển khai mạnh mẽ hơn trong thời gian tới, vì những lợi ích rõ rệt trong việc nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.