Tôi gặp nhà thơ Vũ Đình Liên lần đầu khoảng năm 1992, vào dịp chị Vũ Mỵ Hằng – con gái nhà văn Vũ Trọng Phụng xây được ngôi mộ rất đẹp cho cha ở làng Mọc, nhân kỷ niệm tròn 80 năm ngày ông sinh. Nhà văn của những Số đỏ, Giông tố, Làm đĩ… sống, viết và chết trong bần hàn, giờ có được ngôi mộ khang trang do con gái báo hiếu nên các nhà văn, nhà thơ tập trung khá đông để mừng. Phỏng vấn Vũ Đình Liên, một người của “muôn năm cũ” về cha đẻ của Xuân Tóc Đỏ ngay bên mộ của ông là một kỷ niệm thú vị không dễ quên.
Bẵng đi ít lâu, khi tôi hỏi nhà nghiên cứu Nguyễn Hào Hải về chuyện họa sĩ Dương Bích Liên đốt chiếc ghế duy nhất mà ông có để duy trì hơi ấm trong đêm đông cho thiếu nữ - người mẫu và cũng là duy trì cảm hứng nghệ thuật nơi ông để hoàn thành một bức tranh, anh Hải tình cờ có nhắc đến chuyện hay ngồi uống ở một quán bia ngay gần Gác Hương Lửa của nhà thơ Vũ Đình Liên. Tôi lên Gác Hương Lửa ở chỗ góc đường Bà Triệu cắt Trần Nhân Tông, Hà Nội hỏi chuyện Vũ Đình Liên chung quanh Thơ Mới nhân kỷ niệm 60 năm khởi đầu của phong trào này.
Rồi tôi lại nảy ra ý định tìm gặp tất cả những người được Hoài Thanh - Hoài Chân điểm tên trong “Thi nhân Việt Nam” còn sống cho đến lúc đó để viết bài “Những người cuối cùng của phong trào Thơ Mới”. Lại có dịp đến để hỏi chuyện Vũ Đình Liên. Tóm lại thời gian đó, tôi trở thành người quen của ông, thỉnh thoảng qua lại thăm hỏi, trò chuyện.
Rồi một hôm, tôi đến thì người con trai cho biết ông đã bị lẫn. Quả thật, lúc đó ông đã yếu lắm, nằm trên giường, nói vài câu vô nghĩa.
Rất may là trước đó, tôi đã hỏi ông tường tận về bài thơ “Ông Đồ”.
Tôi quan tâm đến Vũ Đình Liên trước hết vì ông là tác giả bài thơ “Ông Đồ”. Tự mình đọc bài thơ đã thấy hay, lại càng phục hơn khi đọc những dòng mà các tác giả “Thi nhân Việt Nam” dành cho ông: “Ít khi có một bài thơ bình dị mà cảm động đến vậy…”, “Theo đuổi nghề văn mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ. Nghĩa là đủ để lưu danh, đủ với người đời”.
Thú vị là Vũ Đình Liên kể rằng ông làm được bài thơ đó là nhờ… lấy vợ. Vợ ông là người ở phố Hàng Bồ, Hà Nội. Ông nhìn thấy ông đồ ấy, bằng da bằng thịt ngồi trên vỉa hè Hàng Bồ. Lúc đó Hàng Bồ là một phố bán hàng tạp phẩm, đủ thứ từ xà phòng, diêm, giấy, bút, mực,… Chắc chắn đó là một ông đồ nghèo, vì ông không có sẵn giấy. Khi có người đến mua chữ, ông mới chìa tay vào hàng bán giấy phía sau nói bà ơi, cô ơi cho tôi xin tờ giấy. Mua tờ nào trả tiền tờ ấy. Bà chủ của một hàng bán tạp hóa như thế là mẹ vợ Vũ Đình Liên. Vợ ông cũng từng bán giấy cho ông đồ ấy. Khi Vũ Đình Liên lấy vợ năm 1935 thì Hán học đã suy vi lắm rồi, ông đồ đã quá vắng khách. Năm 1936, ông viết “Ông Đồ”.
Nhà thơ Vũ Đình Liên.
“Ông Đồ” là hoài cảm sâu xa về một thời Nho học. Khi văn minh phương Tây tràn vào với sắt thép và công nghệ, với sơ mi, com lê và bánh mì, bơ sữa, …, với tư tưởng tân tiến của các nhà triết học, nhà văn, nhà thơ Pháp, nếp sống cũ bị lung lay tận gốc, Nho học bị tàn lụi nhanh chóng. Thi Nhân Việt Nam có viết rằng chính Vũ Đình Liên trong một bức thư gửi các tác giả cuốn sách có nói rằng ông đồ ấy “chính là cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn”. Hoài Thanh - Hoài Chân bình luận khi đọc “Ông Đồ”: “Tôi tưởng như đọc lời sám hối của bọn thanh niên chúng ta đối với lớp người đương đi về cõi chết… Đã lâu lắm chúng ta chỉ xúm nhau lại chế diễu họ quê mùa, mạt sát họ hủ lậu. Cái cảnh thương tâm của nền Nho học lúc mạt vận chúng ta vô tình không lưu ý. Trong bọn chúng ta vẫn có một hai người ca tụng đạo Nho và các nhà nho. Nhưng chế diễu, mạt sát không nên, mà ca tụng cũng không được. Phần đông các nhà nho còn sót lại chỉ đáng thương. Không nghiên cứu, không lý luận, Vũ Đình Liên với một tấm lòng dễ cảm đã nhận ra sự thực ấy và gián tiếp chỉ cho ta cái thái độ hợp lý hơn cả đối với các bậc phụ huynh của ta. Bài thơ của người có thể xem là một việc nghĩa cử”.
Vũ Đình Liên sinh năm 1913, tức khi viết “Ông Đồ”, ông 23 tuổi. Ngoài việc ở cái thời đột biến về văn hóa ấy, nhiều nhà văn, nhà thơ vượt lớn hơi xa so với tuổi thì Vũ Đình Liên viết được bài thơ không chỉ khái quát được tất cả sự suy tàn của nghìn năm Nho học mà còn tỏ được thái độ cần có (như các tác giả “Thi nhân Việt Nam” viết) với một thời đại, một lớp người đang trôi vào quá vãng như thế còn là do ông thấm đẫm tri thức và văn hóa Đông – Tây. Trong một bài phỏng vấn cách nay đã 20 năm, tôi hỏi và ông đã đáp thế này:
- Bài thơ mở đầu bằng hoa đào, mà nó lại là sự hoài cảm về một thời Nho học. Vậy hoa đào của bác có mang chút hương sắc nào của “hoa đào năm ngoái còn cười gió đông” không?
- Vâng, nó nở ra từ chính cái câu thơ của Thôi Hộ đời Đường “Đào hoa y cựu tiếu đông phong” đã được Nguyễn Du Việt hóa một cách tài tình trong Kiều thành “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”. Trong máu mỗi nhà thơ Việt Nam giai đoạn đó đều có một chút thơ Đường.
- Nhưng “Ông Đồ” là một bài thơ của phong trào Thơ Mới, hẳn trong nó cũng có một chút “chất Pháp”?
- Chính thế. Nhà thơ Pháp thế kỷ XV Francois Villon có làm một bài ballade “Những người mệnh phụ xưa”, trong đó có những câu, tạm dịch là: “Đừng hỏi những người phụ nữ xưa ấy bây giờ ở đâu / Những người tài hoa, son trẻ ấy tìm lại thế nào được / Tuyết mỗi năm tan một lần / Làm sao tìm được tuyết năm xưa”.
Đó là những câu thơ nổi tiếng bậc nhất thơ Pháp xưa và nay. Hai câu kết trong bài “Ông Đồ” “Những người muôn năm cũ / Hồn ở đâu bây giờ” chịu ảnh hưởng của Villon.
“Ông Đồ” là bài thơ mà các tác giả “Thi nhân Việt Nam” phải chịu là “kiệt tác”. Có lẽ sau một đỉnh cao như thế, Vũ Đình Liên cảm thấy khó có thể chinh phục đỉnh cao hơn. Từ cuối những năm 30 ấy, ông đã tiết lộ với Hoài Thanh rằng “đã từ lâu tôi không làm thơ nữa” lý do ông nại ra là không tin thơ ông có giá trị. Hoài Thanh- Hoài Chân cũng viết rằng ông rời thi đàn vào khoảng sau năm 1937. Nhưng nàng thơ đâu dễ bỏ đi như thế. Năm 2013, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, người ta nói ông có đến 4.000 bài thơ mà hầu hết chưa công bố. Hồi tôi hay đến, lần nào Vũ Đình Liên cũng nói đến việc sắp xuất bản một tập thơ có tên “Người kỹ nữ cầu trò”. Không hiểu sao hồi đó tôi không xin ông cho xem bản thảo. Không biết đó chỉ là ước mơ của một ông già gần đất xa trời hay đúng là có một bản thảo sẵn sàng in như thế. Chỉ nghe ông tiết lộ rằng, chủ đề tập thơ là tình thương. “Nó chính là Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị đấy, chỉ có là ở hai thời đại khác nhau mà thôi” - Ông nói với tôi khi ấy.
“Ông Đồ” hay và nổi tiếng nên nó mang lại cho ông những thứ vô giá. Một trong số đó là tình bạn khăng khít với những văn nghệ sĩ nổi tiếng như họa sĩ Bùi Xuân Phái, nhà nhiếp ảnh Trần Văn Lưu. Vũ Đình Liên kể rằng Bùi Xuân Phái ba lần làm tranh “Ông Đồ”. Bức thứ nhất khi các ông còn chưa quen nhau. Đó là một tranh cắt giấy. Ông Phái làm vào khoảng năm 1957. Ông Lưu bạn ông thích nên ông tặng luôn. Ông kể: “Khi người ta đưa tôi đến nhà ông Trần Văn Lưu ở 11, Hàng Bông, Hà Nội để xem nó, tôi đã lặng cả người. Tôi ngắm bức tranh vừa xúc động, vừa lấy làm lạ là tại sao một người không quen lại có thể vẽ một bức tranh thấm đẫm cái hồn mà tôi muốn thể hiện trong bài thơ đến thế. Mà có khi còn hơn nữa. Bức tranh làm tôi thấy bài thơ của mình nói chưa hết, chưa đủ. Sau khi gặp mặt Bùi Xuân Phái, tôi có làm bài thơ “Gửi Bùi Xuân Phái” như sau: Người bảo tranh anh vốn sẵn buồn/ Như thơ tôi vẫn cứ thương thương / Anh, tôi đâu phải không vui lắm / Nhân thế vì rằng chửa sướng luôn / Có lẽ loài người da bọc thịt / Há như giống sói mõm phanh sườn/ Thiêu thân nghệ thuật là duyên nghiệp / Đốt trái tim trầm gửi gió hương”.
Vũ Đình Liên cũng kể bài thơ được Bùi Xuân Phái chép lại theo kiểu thư pháp rất đẹp và lấy câu kết “Đốt trái tim trầm gửi gió hương” làm tên bài. Họa sĩ còn vẽ một cái vi nhét hình trái tim đang bốc ngọn lửa mà sau này ông Liên lấy làm biểu trưng, làm huy hiệu cho riêng mình và in vào tất cả những gì ông thích. Ông cũng đặt tên cho căn gác nhỏ của ông là Gác Hương Lửa.
Điều thú vị là Vũ Đình Liên cũng nhiều lần trở lại với hình ảnh ông đồ trong thơ. Ông có làm thêm 2 -3 bài. Một trong số đó có tên “Bóng ông đồ” (hay còn gọi là “Ông đồ II”), như sau: Mỗi năm hoa đào nở /Lại thấy ông đồ già / Bút nghiên và giấy đỏ /Ngồi đúng chỗ ngồi xưa / Ôi! Cái nghiệp nghiên bút / Tô điểm cho cuộc đời / Người chết nghiệp không chết / Nợ tiền kiếp luân hồi / Trải trăm ngàn dâu bể / Giấy mực màu không thay / Chữ Nhân và chữ Nghĩa / Vẫn những nét thẳng ngay / Ông đồ vẫn ngồi đấy / Khăn áo bạc màu dưa / Nhắc cho người qua thấy / Lẽ nhân đạo, thiên cơ.
Tôi đọc bài thơ này bỗng tự hỏi phải chăng Vũ Đình Liên đã dự cảm rồi cuộc sống luân hồi, văn hóa tuần hoàn, có ngày thú chơi chữ, chơi thư pháp lại trở lại, như ngày hôm nay? Có thể như vậy, mà có thể là không, chỉ là thêm một lần ông ước vọng, ông hoài cảm.
Hồi ông mất ngay trước Tết Bính Tý 1996, tôi có viết bài tiễn biệt ông. Lúc đó lác đác hoa đào nở. Tôi nghĩ đến mấy câu kết trong bài thơ của ông: “Năm nay đào lại nở / Không thấy ông đồ xưa / Những người muôn năm cũ / Hồn ở đâu bây giờ”, và viết câu kết cho bài báo của mình: “Hồn của ông chắc đang phiêu diêu về với thế giới của những ông đồ. Chỉ tiếc ông không còn được thấy hoa đào năm cũ trong một mùa xuân mới đã cận kề”.
Ông Đồ
Mỗi năm hoa đào nởLại thấy ông đồ giàBày mực tàu, giấy đỏBên phố đông người quaBao nhiêu người thuê viếtTấm tắc ngợi khen tàiHoa tay thảo những nétNhư phượng múa, rồng bayNhưng mỗi năm, mỗi vắngNgười thuê viết nay đâuGiấy đỏ buồn không thắmMực đọng trong nghiên sầuÔng đồ vẫn ngồi đấyQua đường không ai hayLá vàng rơi trên giấyNgoài trời mưa bụi bayNăm nay đào lại nởKhông thấy ông đồ xưaNhững người muôn năm cũHồn ở đâu bây giờ?Vũ Đình Liên