'Cởi trói' thị trường

Trên phương diện pháp lý, Nghị định 232 đánh dấu sự chuyển đổi triết lý quản lý nhà nước đối với thị trường vàng từ mô hình can thiệp trực tiếp, độc quyền sang mô hình quản lý gián tiếp thông qua cơ chế cấp phép và giám sát.

Đây là xu hướng phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời vẫn đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước. Tuy nhiên, việc chuyển đổi mô hình quản lý này đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý, đòi hỏi phải có hệ thống quy phạm pháp luật đầy đủ, rõ ràng và cơ chế thực thi hiệu quả.

Nghị định bổ sung Điều 11a quy định điều kiện cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng với yêu cầu doanh nghiệp phải có vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng trở lên, ngân hàng thương mại phải có vốn điều lệ từ 50.000 tỷ đồng trở lên, cùng với các điều kiện khác như có Giấy phép kinh doanh mua bán vàng miếng, không bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã khắc phục hậu quả và có quy định nội bộ về sản xuất vàng miếng.

Quy định về vốn điều lệ tối thiểu này tuy nhằm đảm bảo năng lực tài chính và hạn chế rủi ro nhưng từ góc độ pháp luật cạnh tranh mức vốn quá cao có thể tạo ra rào cản gia nhập thị trường bất hợp lý dẫn đến tình trạng độc quyền nhóm thay cho độc quyền nhà nước. Điều này có thể trái với tinh thần của Luật Cạnh tranh về việc khuyến khích cạnh tranh lành mạnh.

Một điểm mới quan trọng khác là yêu cầu thanh toán qua tài khoản ngân hàng đối với giao dịch vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên. Quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc minh bạch hóa dòng tiền, phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. Từ góc độ thực thi pháp luật việc xác định giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày của một khách hàng có thể gặp khó khăn trong thực tế.

Mặc dù Nghị định giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng. Thông tư 34/2025/TT-NHNN ngày 9/10/2025 đã hướng dẫn tương đối chi tiết hồ sơ, quy trình. Tuy vậy, một số nội dung như tiêu chí đánh giá năng lực sản xuất, tiêu chí giám sát rủi ro vẫn mang tính khung, để lại dư địa lớn cho cơ quan hành chính trong quá trình áp dụng. Điều này vi phạm nguyên tắc pháp định trong luật hành chính. Các thủ tục hành chính phải được quy định rõ ràng, minh bạch để tránh tình trạng tùy tiện trong quá trình thực thi.

Nghị định và Thông tư 34/2025/TT-NHNN có quy định về việc Ngân hàng Nhà nước xây dựng tổng hạn mức hằng năm và phân bổ cho từng doanh nghiệp, ngân hàng dựa trên mục tiêu chính sách tiền tệ, cung cầu vàng và quy mô dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên các tiêu chí này mang tính khung, không có ngưỡng định lượng cụ thể nên trên thực tế Ngân hàng Nhà nước vẫn nắm quyền quyết định rất lớn trong phân bổ hạn mức, tiềm ẩn rủi ro thiếu minh bạch nếu không có cơ chế công khai, giám sát độc lập.

Hoạt động tái chế vàng miếng cũ là cần thiết để tăng nguồn cung nhưng đồng thời tiềm ẩn rủi ro lớn về việc hợp thức hóa vàng buôn lậu. Nghị định không có quy định cụ thể về quy trình thu hồi, giám sát nguồn gốc vàng, cơ chế kiểm tra chất lượng và truy xuất nguồn gốc. Đây là một lỗ hổng pháp lý nghiêm trọng có thể bị lợi dụng để “rửa” vàng buôn lậu thành vàng hợp pháp.

Nghị định tập trung vào quản lý khu vực chính thức nhưng thiếu công cụ pháp lý hiệu quả để giải quyết vấn đề giao dịch vàng phi chính thức vốn chiếm tỷ trọng đáng kể trong thị trường vàng Việt Nam. Yêu cầu thanh toán qua tài khoản từ 20 triệu đồng có thể bị vô hiệu hóa bởi các giao dịch nhỏ lẻ hoặc giao dịch ngầm. Từ góc độ pháp lý cần có cơ chế chuyển đổi dần thị trường phi chính thức sang chính thức thông qua kết hợp ưu đãi (giảm thuế, đơn giản hóa thủ tục) và chế tài (tăng cường kiểm tra, xử phạt nghiêm). Đồng thời có chính sách hỗ trợ hợp pháp hóa hoạt động kinh doanh vàng của các hộ kinh doanh nhỏ lẻ…

Chỉ khi khắc phục được những hạn chế, những “điểm đen” nêu trên, thị trường vàng mới thực sự được “cởi trói” và phát triển đúng hướng!