Chuyên gia WorldBank: Việt Nam cần tiết kiệm điện hơn nữa

Ông Franz Gerner (thứ hai từ trái sang) tại tọa đàm “Cung ứng điện giai đoạn 2016-2020: Nguy cơ thiếu điện và giải pháp”
Ông Franz Gerner (thứ hai từ trái sang) tại tọa đàm “Cung ứng điện giai đoạn 2016-2020: Nguy cơ thiếu điện và giải pháp”
TPO - Trao đổi với báo chí ông Franz Gerner, Trưởng nhóm Năng lượng, WorldBank Việt Nam cho hay, Việt Nam hiện là một trong những nước tiêu thụ nhiều điện nhất khu vực. Tăng cường tiết kiệm sử dụng điện là cách rẻ tiền nhất với Việt Nam nếu không muốn đổ nhiều tỷ USD đầu tư cho các dự án điện.

Báo cáo mới đây của Chính phủ và các tổ chức quốc tế đều cho thấy lượng điện tiêu thụ tại Việt Nam liên tục tăng với mức 2 con số trong giai đoạn 2016-2020. Vậy mỗi năm Việt Nam cần đầu tư bao nhiêu vào các dự án sản xuất điện mới? Mức giá hiện nay có hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài không?

Do kinh tế phát triển nhanh nên nhu cầu về điện tại Việt Nam tăng nhanh, khoảng 8%/năm từ nay cho tới năm 2020. Với tốc độ đó, tổng vốn đầu tư cần thiết sẽ vào khoảng 12,8 tỉ USD (11 tỉ USD đầu tư vào sản xuất điện và 1,8 tỉ USD đầu tư vào truyền tải và phân phối điện) trong khoảng thời gian 2016-2020.

Việt Nam hiện là một trong những nước tiêu thụ nhiều điện nhất khu vực Đông Á Thái Bình Dương. Vì vậy, tăng cường tiết kiệm sử dụng điện là cách rẻ tiền nhất để tránh phải nâng cao công suất phát điện trong tình hình nhu cầu sử dụng điện tăng cao. Trong tình hình này, Ngân hàng Thế giới có một gói hỗ trợ tổng thể về tài chính và kỹ thuật huớng tới tăng cường tiết kiệm sử dụng điện trong các nhà máy.

Đồng thời với việc tiết kiệm điện, muốn huy động các nguồn mới đầu tư vào hạ tầng điện lực thì cần áp dụng một số chính sách mới xoay quanh 3 trụ cột gồm: Phát động một chương trình được xây dựng kỹ lưỡng về phát triển các nhà máy phát điện độc lập theo hình thức PPP để qua đó xây dựng lòng tin đối với nhà đầu tư tư nhân; Chuẩn bị cho EVN và các công ty thành viên đạt tiêu chuẩn vay vốn doanh nghiệp và thực hiện một chương trình nâng cao khả năng cấp vốn bằng đồng nội tệ và tăng cường phát triển thị trường vốn trong nước. 

 Theo Bộ Công Thương, đợt tăng giá điện vừa qua sẽ làm CPI tăng 0,08% trong năm 2017, tăng 0,1% năm 2018 và giảm mức tăng trưởng GDP 0,166%. Ông đánh giá gì về điều này?

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy tác động của tăng giá điện lên tỉ lệ lạm phát thường là khá thấp, nhất là khi áp dụng tăng giá từ từ. Đợt tăng giá này có thể làm cho giá cả tăng mạnh hơn xu thế lạm phát thông thường nhưng tác động chỉ mang tính nhất thời và không đáng kể. Nguyên nhân là chi tiền điện chỉ chiếm 2,5% giỏ hàng tiêu dùng mặc dù tác động đó có thể còn lan truyền đôi chút sang các loại hàng hóa và dịch vụ  khác có tiêu thụ điện trong sản xuất. Hiện nay lạm phát khá thấp. Đây chính là điều kiện thuận lợi để tăng giá điện.

Về tăng trưởng GDP thì có hai hiệu ứng trái ngược. Một mặt giá điện tăng sẽ giúp các công ty sản xuất điện cải thiện tình hình tài chính. Nhờ vậy chính phủ cũng có thể cắt giảm hỗ trợ cho các doanh nghiệp này, và vẫn có thể đầu tư vào nâng cao năng lực sản xuất, truyền tải và phân phối điện. Điều đó tất nhiên sẽ góp phần thúc đẩy tăng GDP. Nhưng mặt khác, giá điện tăng sẽ làm tăng chi phí sản xuất, nhất là những ngành tiêu thụ nhiều điện năng, ví dụ ngành công nghiệp chế tạo và một bộ phận nông nghiệp.

Các ngành này sẽ chịu một số tác động ngắn hạn, nhưng về lâu dài tăng giá điện sẽ buộc các khách hàng điều chỉnh các sử dụng điện của mình. Họ sẽ chuyển sang sử dụng điện lệch giờ cao điểm để được hưởng giá thấp hơn hay áp dụng các biện pháp tăng cường tiết kiệm điện. Như vậy sẽ góp phần tăng năng suất lao động.

Kinh nghiệm chung trên thế giới là quy định mức giá phản ánh đúng chi phí và hợp lý chính là chính sách kinh tế đúng đắn. Qua đó sẽ đảm bảo rằng cả nhà sản xuất và người tiêu dùng đều hướng tới tiết kiệm năng lượng và đầu tư vào các công nghệ tiết kiệm năng lượng hơn.

Tuy tăng giá điện như vậy nhưng Bộ Công Thương cho biết trong giá điện vẫn chưa tính đến trên 8.000 tỷ đồng lỗ do chênh lệch tỷ giá.. Nếu tính đến khoản này thì giá điện sẽ còn cao hơn nữa. Ông có cho rằng tăng giá như vừa rồi có giúp EVN cải thiện tình hình tài chính không?

Chiến lược chung về giá điện của Bộ Công Thương là nhằm đảm bảo cho EVN có đủ lãi để bù đắp đủ chi phí hoạt động và hoàn trả vốn vay. Do dựa chủ yếu vào thủy điện nên nếu năm nào có lượng mưa trung bình thì EVN cũng có lãi. Nhưng vấn đề là nhu cầu vốn đầu tư của EVN và ngành điện rất lớn, vào khoảng 4-7 tỉ USD mỗi năm từ nay cho tới 2030. Con số đó hiện nay chưa thể hiện trong giá điện và cái khó của EVN và ngành điện là làm sao thu hút được vốn thương mại và sự tham gia của khu vực tư nhân vào đầu tư.

Vấn đề chính mà EVN và ngành điện nói chung đang phải đối mặt hiện nay là không thể nâng giá điện tiêu dùng theo mức tăng chi phí. Hiện EVN đang hoạt động với chi phí thấp nhưng giá bán điện thấp đã làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp không khả quan. Đợt tăng giá này sẽ giúp đưa giá điện về gần hơn với mức phản ánh đầy đủ chi phí sản xuất mà mọi người sử dụng đều có thể chi trả được và đồng thời bảo vệ được người tiêu dùng thu nhập thấp thông qua mạng lưới an sinh sẵn có.

Hiện nay, nhu cầu đầu tư sản xuất điện tăng nhanh nhằm đáp ứng tốc độ tăng cầu về điện. Muốn thỏa mãn nhu cầu đó thì giá điện phải lên tới mức 0,143 USD/kwh vào năm 2021. Với Việt Nam, lượng điện có thể sản xuất từ các nguồn rẻ tiền như thủy điện, than, khí đã bị khai thác tới hạn. Thời gian tới, lượng điện sản xuất mới từ than nhập khẩu và trữ lượng khí trong nước đều sẽ có giá thành cao hơn.

Tuy mức giá thành khác nhau như vậy nhưng giá điện sinh hoạt, giá điện kinh doanh và giá điện công nghiệp bán ra tại Việt Nam hiện tương đối thấp so với các nước có cùng trình độ phát triển (GDP/người) trong khu vực và trên thế giới. Ví dụ, giá điện tại Campuchia, Lào, Philipinnes và Indonesia lần lượt là 19 US cent/kwh, 9 US cent/kwh, 14,6 US cent/kwh, và 7,3 US cent/kwh.

Cảm ơn ông

MỚI - NÓNG