1. Vùng đất Gia Định thực sự trở thành đơn vị hành chính của Việt Nam dưới thời chúa nào?
-
icon
Nguyễn Phúc Chu
-
icon
Nguyễn Phúc Thái
-
icon
Nguyễn Phúc Chú
Đáp án B. Nguyễn Phúc Chu sinh năm 1675. Năm 1691, khi mới 17 tuổi, chúa cha Nguyễn Phúc Thái qua đời. Phúc Chu được nối ngôi, trở thành vị chúa Nguyễn thứ sáu của chính quyền Đàng Trong. Trong thời gian chúa Phúc Chu trị vì (từ năm 1691 đến năm 1725), lãnh thổ Đại Việt được mở rộng đáng kể sau nhiều cuộc chiến với Chiêm Thành và Chân Lạp. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử quan lại của triều đình vào kinh lược xứ Đồng Nai, nơi có sẵn nhiều cư dân người Việt làm ăn sinh sống từ những năm đầu của thế kỷ. Viên quan được lãnh trách nhiệm này là Nguyễn Hữu Kính (còn gọi là Nguyễn Hữu Cảnh). Theo Đại Nam thực lục tiền biên, chúa Nguyễn Phúc Chu "sai Thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia Định)". Mỗi dinh này đều được thiết lập bộ máy quan chức giống ở các nơi khác. Đến đây, chính quyền họ Nguyễn đã "mở rộng đất được nghìn dặm" và tăng dân số được "hơn bốn vạn hộ". Sau khi ổn định về mặt tổ chức hành chính, những dân xiêu dạt từ Bố Chính trở vào nam được đưa đến ở và canh tác cho đông đúc rồi tiếp tục thiết lập xã, thôn, phường, ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệnh thuế tô dung, làm sổ đinh điền. Chúa lấy người Thanh (Trung Quốc) buôn bán ở Trấn Biên lập làm xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn lập thành xã Minh Hương. Từ đó người Thanh ở đây buôn bán đều trở thành cư dân thuộc chính quyền các chúa Nguyễn. Với việc kiện toàn nhiều mặt như trên, vùng đất Gia Định cho đến cuối thế kỷ 17 thực sự trở thành một đơn vị hành chính quan trọng của chính quyền các chúa Nguyễn, đồng thời cũng trở thành trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế và văn hóa quan trọng của cả vùng đất Nam Bộ. Trước đó, Gia Định thuộc Chân Lạp. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, Chân Lạp thần phục họ Nguyễn nên chúa đã cho người đến vùng đất này khai phá.
2. Chúa Nguyễn Phúc Chu là người tôn sùng đạo nào?
-
icon
Đạo Phật
-
icon
Thiên Chúa giáo
Đáp án A. Chúa Nguyễn Phúc Chu là cư sĩ Phật giáo mộ đạo, có nhiều công lao trong việc trùng tu chùa chiền và hỗ trợ truyền bá Phật pháp trong nước. Ông rất quan tâm việc xây dựng, tu bổ chùa miếu. Năm 1710, chúa cho đúc chuông chùa Thiên Mụ, làm bài minh khắc vào chuông. Bốn năm sau, chúa cho trùng tu chùa Thiên Mụ. Sách Đại Nam thực lục tiền biên viết: “Chúa thân chế bài văn bia để ghi, sai người sang nước Thanh mua kinh Đại tạng cùng luật và luận hơn nghìn bộ để ở tự viện. Đằng trước chùa kề sông, dựng đài câu. Chúa thường ra chơi. Bấy giờ nhà sư ở Chiết Tây tên là Đại Sán, vì thiền mà được yêu dùng, sau về Quảng Đôn, lấy những gỗ quý chúa ban cho mà dựng chùa Trường Thọ". Năm 1716, chúa còn cho sửa chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch. Năm 1721, chúa cho dựng thêm chùa Hoàng Giác ở xã Hiền Sĩ (huyện Phong Điền) và cũng ban cho chiếu biểu vàng… Song song với việc phát triển đạo Phật, thời bấy giờ, các chúa Nguyễn cấm đoán việc giảng đạo Thiên Chúa. Theo sách Lịch sử Việt Nam, chúa Nguyễn Phúc Chu từng ra lệnh đuổi giáo sĩ và cấm dân gian theo đạo Thiên Chúa, nhưng lệnh ban ra không thi hành nghiêm ngặt.
3. Có kỳ thi tuyển chọn nhân tài nào được tổ chức dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu?
-
icon
Có
-
icon
Không
Đáp án A. Không chỉ có công lớn trong việc mở mang bờ cõi, phát triển Phật giáo, chúa Nguyễn Phúc Chu còn quan tâm đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục thi cử. Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu cho mở hai khoa thi vào tháng 3 và 8. Khoa thi tháng 3 lấy đỗ 60 người, quy định: "Người đỗ Giám sinh được bổ Văn chức và Tri huyện, Sinh đồ được bổ Huấn đạo, Nhiêu học được bổ Lễ sinh, Hoa văn được bổ vào ty Tướng thần lại và ty Lệnh sử, Thám phỏng được bổ vào ty Xá sai". Cũng vào năm 1695, tháng 8 chúa Nguyễn Phúc Chu bắt đầu tổ chức kỳ thi Văn chức và Tam ty ở sân phủ dành riêng cho quan lại gọi là Đình thí (thi Đình). Thi Văn chức gồm kỳ thi đệ nhất thi tứ lục, đệ nhị thi thơ phú, đệ tam thi văn sách giống như khoa thi Chính đồ. Còn thi Tam ty thì về công việc của từng ty. Ví dụ, ty Xá sai hỏi về số tiền thóc xuất nhập và việc ngục tụng xử quyết trong một năm… Việc thi cử này mới dừng lại ở việc khảo thí quan lại đang làm việc chứ chưa mang tính chất đào tạo tuyển dụng quan lại mới.
4. Chúa Nguyễn Phúc Chu có 146 người con. Ông truyền ngôi cho ai?
-
icon
Con cả
-
icon
Con nuôi
-
icon
Cháu ruột
Đáp án A. Thời điểm Nam Bắc nghỉ binh được hơn 30 năm, trong cõi yên ổn, trăm họ giàu có đông đúc, người ta gọi là đời thái bình thì chúa Nguyễn Phúc Chu qua đời, ở ngôi 34 năm, thọ 51 tuổi. Theo Đại Nam thực lục tiền biên, ông có 146 người con. Hoàng tử cả là Nguyễn Phúc Chú (có tài liệu viết là Nguyễn Phúc Thụ) được nối ngôi. Lên ngôi ở tuổi 29, ông được người đời gọi là chúa Ninh, chúa thứ bảy của chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong. Trong thời gian trị vì, chúa Nguyễn Phúc Chú ban bố các điều khuyên răn dân chúng siêng năng cày cấy, cấm nạn rượu chè, cờ bạc. Chúa định lại quan chế, cử quan lại giữ gìn và mở mang các xứ. Dưới thời chúa Ninh Nguyễn Phúc Chú, Chân Lạp vào cướp Gia Định nhưng nhanh chóng bị đánh dẹp, miền Nam tương đối ổn định và phát triển. Ở ngôi được 13 năm, đến năm 1738, chúa Nguyễn Phúc Chú qua đời, thọ 43 tuổi. Chúa được đánh giá có công trong việc thiết lập đơn vị hành chính mới, giữ gìn và mở mang vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày nay. Lăng chúa Nguyễn Phúc Chú có tên là Trường Phong, nằm ở thôn Định Môn, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lăng ở bên cạnh khe Trường Phong, cách bờ sông Hương gần 2 km, xoay mặt về hướng chính bắc.
5. Người Việt lần đầu đánh bại thủy quân châu Âu dưới thời chúa Nguyễn nào?
-
icon
Nguyễn Phúc Lan
-
icon
Chúa Nguyễn Hoàng
-
icon
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên
Đáp án C. Nguyễn Phúc Lan sinh năm 1601, (chúa thứ 3) là con trai thứ của chúa sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Năm 1635, chúa Sãi mất, Phúc Lan lên thay, trở thành vị chúa thứ ba của chính quyền Đàng Trong, được người thời bấy giờ gọi là chúa Thượng. Năm 1644, được quân tuần biển báo tin Hà Lan đậu thuyền ngoài biển, cướp bóc lái buôn, chúa Nguyễn Phúc Lan tập trung quần thần lấy ý kiến. Giữa lúc đó, thế tử Nguyễn Phúc Tần chưa được lệnh của cha đã đốc suất chiến thuyền tiến thẳng, bất ngờ đột kích. "Chiến thuyền trước sau lướt nhanh như bay. Giặc trông thấy cả sợ, nhằm thẳng phía đông mà chạy, bỏ rơi lại một chiếc thuyền lớn. Thế tử đốc quân vây bắn. Tướng giặc thế cùng phóng lửa tự đốt chết. Thế từ bèn thu quân về", Đại Nam thực lục tiền biên chép. Chúa Nguyễn Phúc Lan nghe tin thế tử đi một mình nên sợ, tự đốc suất đại binh tiếp ứng. Vừa tới cửa biển, trông khói đen bốc mù trời ở phía xa, chúa liền ra lệnh cho các quân tiến lên. Tới khi được tin thắng trận, chúa mừng lắm. Dù trách móc vì thế tử Phúc Tần tự quyết nhưng chúa vẫn khen ngợi và trọng thưởng. Chiến thắng trước Hà Lan dưới thời chúa Nguyễn Phúc Lan là lần đầu tiên thủy quân Việt Nam đánh thắng một lực lượng thủy quân từ châu Âu.
6. Có bao nhiêu cuộc chiến lớn thuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn diễn ra dưới thời chúa Nguyễn Phúc Lan?
-
icon
2
-
icon
1
-
icon
3
Đáp án B. Lên ngôi được một năm, chúa Nguyễn Phúc Lan chuyển thủ phủ từ làng Phước Yên (Quảng Điền, Thừa Thiên) qua làng Kim Long (Hương Trà, Thường Thiên). Năm 1643 Trịnh Tráng sai Thái bảo Trịnh Tạc và Trịnh Đệ thống lĩnh đại quân xâm phạm Nam Bố Chính. Tướng đứng đầu quân Nguyễn là Bùi Công Thắng chết trận. Quân Trịnh đánh chiếm cửa Nhật Lệ. Tháng 3/1643, Trịnh Tráng lại dẫn vua Lê tiến đóng quân ở xã An Bài, Bắc Bố Chính (thuộc Bình Chính, tỉnh Quảng Bình, một làng cách cửa sông Gianh chừng 4km). Một tháng sau, Trịnh Tráng sai Trịnh Đào đánh lũy Trung Hòa (thuộc làng Mỹ Hòa, Quảng Bình). Quân Nguyễn phòng thủ vững chắc. Quân Trịnh đánh không được. Trời nóng bức, quân bị chết nhiều, Trịnh Tráng phải cho rút về. Sau năm năm rút quân, đầu năm 1648, thủy quân của họ Trịnh tiến vào cửa biển Nhật Lệ, mở ra cuộc chiến thứ tư trong nội chiến Trịnh - Nguyễn. Tướng Hoàng Lễ của họ Nguyễn chống cự nhưng bị thua, phải cầu viện Nguyễn Phúc Kiều. Kiều sai Nguyễn Triều Văn đem thuyền chiến đến cứu viện nhưng người này nhút nhát, không chịu tiến khiến quân Trịnh tiến vào chiếm dinh Quảng Bình. Chúa Nguyễn Phúc Lan sai con trai Nguyễn Phúc Tần cùng các tướng Tống Hữu Đại, Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Triều Văn lĩnh thủy binh, chúa thân chinh đem đại binh đi sau, đóng trại ở Trung Chi (thuộc huyện Đăng Xương). Quân tiến đến dinh Quảng Bình, Nguyễn Phúc Tần hội bàn các tướng, cho thủy binh phục sẵn ở bên tả sông Cẩm La, chặn đường tháo lui của họ Trịnh, rồi sai Nguyễn Phúc Tiến đem hơn 100 con voi đực, đang đêm đánh thẳng vào dinh quân Trịnh, mở đường cho bộ binh đánh theo sau. Quân Trịnh bị đánh bất ngờ, thua chạy, lại bị quân thủy đánh truy kích, đều bị chết đuối. Quân Nguyễn đại thắng, bắt sống đươc ba tướng và ba chục nghìn tàn quân của nhà Trịnh
7. Nguyễn Phúc Lan đã có một chính sách hoàn hảo với ba chục nghìn tàn quân của nhà Trịnh bị bắt sống trong cuộc chiến năm 1648. Chính sách đó là gì?
-
icon
Cho vào phía nam sinh sống, khai khẩn ruộng hoang
-
icon
Đưa vào núi sâu và nơi hải đảo để tránh sinh biến
-
icon
Thả về miền Bắc
Đáp án A. Theo Lịch sử Việt Nam, để xử lý số tù binh này, Nguyễn Phúc Lan đã họp các tướng lĩnh. Có người cho rằng “Quan giặc tráo trơ để đấy sợ sinh biến, không bằng đưa họ đi chốn núi sâu hay nơi hải đảo để khỏi lo về sau”. Lại có người cho rằng “Giết tướng hiệu đi còn thì thả về miền Bắc”. Nhưng chúa Nguyễn Phúc Lan nói: “Hiện nay từ miền Thăng (tức phủ Thăng Bình), Điện (tức phủ Điện Bàn) trở vào Nam là đất cũ của người Chăm, dân cư thưa thớt, nếu đem chúng an tháp vào đất ấy, cấp cho canh ngưu điền khí, chia ra từng bộ từng xóm, tính nhân khẩu, cấp cho lương ăn để chúng khai khẩn ruộng hoang, thời trong mấy năm, thuế má thu được, có thể giúp quốc dụng, và sau hai mươi năm sinh sản ngày nhiều, có thể thêm vào quân số, có gì mà lo về sau”. Nói xong, chúa tha cho hơn 60 tỳ tướng trở về, còn ba chục nghìn tù binh được chia nhỏ ra ở các nơi, cứ 50 người lập thành một ấp, cấp cho lương ăn nửa năm. Chúa Nguyễn lại lệnh cho nhà giàu bỏ thóc cho vay và cho họ được tìm lấy những nguồn lợi ở nơi sinh sống. Từ đó, vùng đất Thăng, Điện đến Phú Yên làng mạc liền nhau, sau thành hộ khẩu. Đây là cuộc thiên cư lớn của họ Nguyễn trong công cuộc khai phá miền đất Nam Trung Bộ.
8. Trong thời gian trị vì, chúa Nguyễn Phúc Lan có tổ chức kỳ thi tuyển chọn nhân tài nào?
-
icon
Có
-
icon
Không
Đáp án A. Năm 1646 chúa Nguyễn Phúc Lan định phép thi 9 năm một kỳ, ra lệnh cho các học trò về khoa chính đồ và khoa hoa văn đến công phủ ứng thi. Khoa chính đồ thi ba ngày. Ngày thứ nhất thi tứ lục, ngày thứ hai thi thơ phú, ngày thứ ba thi văn sách. Người trúng được định làm ba hạng giáp, ất, bính và được giao các chức vụ tùy thuộc vào từng hạng như tri phủ, tri huyện, huấn đạo… Khoa hoa văn cũng thi ba ngày, mỗi ngày đều viết một bài thơ. Người trúng cũng chia làm ba hạng và được bổ dụng các chức vụ phù hợp. Kỳ thi này được gọi là “Thu vi hội thí” (thi hội mùa thu). Năm 1647, chúa Phúc Lan bắt đầu mở khoa thi, được ghi nhận là thi hội mùa thu đầu tiên ở Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn. Kỳ thi này có bảy người đỗ chính đồ, 24 người đỗ hoa văn, đều được bổ dụng.
9. Có thời gian chúa Nguyễn Phúc Lan bỏ bê quốc sự, coi nhẹ xã tắc sơn hà do bị ai mê hoặc?
-
icon
Chị dâu
-
icon
Em dâu
-
icon
Cháu dâu
Đáp án C. Tống thị là vợ lẽ của trấn thủ Quảng Nam Nguyễn Phúc Kỳ (người con trưởng đột ngột qua đời của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên), tức chị dâu của chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan. Năm 1639, Tống thị vào yết kiến. Sách Đại Nam thực lục tiền biên chép: "Tống thị có vẻ xinh đẹp, khéo ứng đối, từng nhân việc vào ra mắt, đem tình trạng đau khổ kêu xin và xâu một chuỗi (ngọc) bách hoa để dâng. Chúa thương tình, cho được ra vào cung phủ. Thị thần có người can nhưng chúa không nghe". Nhờ vào địa vị với chúa, Tống thị làm giàu bằng cách nhận hối lộ của những kẻ luồn cúi, cầu cạnh, thẳng tay bóc lột dân đen. Bà còn xúi chúa trừng trị những người mà bà oán ghét, những cận thần trung nghĩa dám can gián chúa, những kẻ tỏ ý khinh miệt việc làm bất chính của bà. Còn chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan, từ ngày có Tống thị ở bên, trở nên nóng nảy, xa xỉ. Từ một quân vương chiến công hiển hách, chúa dần bỏ bê quốc sự, coi nhẹ xã tắc sơn hà. Năm 1640, thấy biên cương không có gì đáng lo, chúa quay sang chăm yến tiệc vui chơi, xây dựng cung thất công dịch không ngớt. Thấy vậy, nội tán họ Phạm, một người cương trực, đã liều thân can rằng: "Xưa kia Nghiêu Thuấn dùng nhà cỏ tranh không xén, xà mộc không đẽo, mà chư hầu cảm nhận, bốn rợ mến đức, hà tất phải nhà cao cửa rộng mới yêu thích đâu? Nay họ Trịnh trên thì ép vua Lê, dưới thì hiếp công khanh, vốn có ý nhòm ngó ta. Chúa nên lo lắng siêng năng, xem xét thời cơ, mở mang bờ cõi. Nếu không nghĩ điều ấy mà chỉ chăm việc thổ mộc, thì thần chưa biết như thế có nên không"? Chúa nghe và hiểu ý nội tán Phạm, liền nói "Đấy đều là do người ta xu nịnh bày ra, thực không tự ý ta" rồi tức thì ra lệnh đình bãi các việc xây dựng lâu đài, dần lánh xa Tống thị và quan tâm việc chính sự trở lại.
10. Chúa Nguyễn Phúc Lan mất vì lý do gì?
-
icon
Lâm bệnh nặng
-
icon
Chết trận trong cuộc chiến với họ Trịnh
-
icon
Bị đầu độc
Đáp án B. Năm 1648, trong cuộc chiến lần thứ tư với quân Trịnh, chúa Nguyễn Phúc Lan phải tự cầm quân đi hỗ trợ. Sau thấy người không được khỏe mới trao binh quyền cho con trai Nguyễn Phúc Tần và tướng Nguyễn Hữu Dật chỉ huy, còn mình rút về. Bệnh nặng, đến phá Tam Gang thì chúa mất, ở ngôi 13 năm, thọ 48 tuổi. Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan được an táng tại núi An Bằng thuộc huyện Hương Trà. Lăng mộ chúa được gọi là lăng Trường Diên. Ngày nay, lăng Trường Diên thuộc xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lăng nằm gần phía dòng Hữu Trạch của sông Hương, cách bờ sông khoảng 300 m, xoay mặt về hướng bắc. Hiện lăng Trường Diên xuống cấp nghiêm trọng với bờ thành ngoài bị vỡ.
Kết quả
Bạn hãy chăm chỉ hơn nhé!
điểm