Các chân dung lần lượt xuống chiếu với nhiều cung bậc khác nhau. Có bài đùa một tí, có bài đùa dai, có bài xót xa đồng cảm, có bài nghẹn ngào uất ức, có bài mỗi lời là một vận vào khó nghe. Ra bài nào truyền tay bài đấy, truyền khẩu ở mọi nơi mọi lúc, ở giờ nghỉ các cuộc họp, ở quán nước vỉa hè, ở cửa hàng bia hơi bánh tôm Hồ Tây, ở quán thịt chó Hàng Lược… Và tất nhiên cũng được đặt lên bàn các cuộc họp của Ban Thường vụ Hội Nhà văn, cuộc họp Ban Tuyên huấn Trung ương và các cơ quan chức năng về văn hóa, văn nghệ, cơ quan bảo vệ văn hóa văn nghệ. Tôi cứ ngu ngơ như kẻ điếc không sợ súng, hay nói như nhà phê bình Vương Trí Nhàn: “ông Sách bị quỷ ám”. Cũng có lúc bị bầm dập, tôi thấy cô đơn trơ trọi, cũng có lúc ngộ ra cái khoái cảm tuyệt vời trong sự sáng tạo văn chương, tôi lặng lẽ đi tới. Biết đâu, Dại chốn văn chương ấy dại khôn!
Ba mươi năm sàng lọc được trăm bài, chín mươi chín bài xưng tụng các anh các chị đồng nghiệp, bài thứ một trăm tự vẽ mặt mình!
Chúng tôi chỉ coi đây là nét tự trào của giới cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên các chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình, học hiểu mình thêm qua cách nhìn của người cùng hội cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí, ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.
Trích “Lời cuối sách”
bản in “Chân dung nhà văn” của NXB Văn học
Nhưng làm thế nào để in ra thành sách? Nhiều người góp ý cho tôi. Anh Phùng Quán nói: Thơ ông tuy truyền miệng truyền tay cũng coi như một sàng trong xó bếp, in ra mới được coi là một miếng giữa làng. Có người khuyên không nên in ra mà để lưu truyền như một thứ văn học dân gian, có khi tạo nên một dòng thơ chân dung như dòng thơ Bút Tre vậy, tạo việc làm cho các nhà sưu tầm khảo cứu hậu thế.
Có người cảnh báo, từ truyền khẩu mà in ra giấy trắng mực đen của loại thơ độc hại này là một khoảng cách chết người. Trăm năm bia đá, nghìn năm bia miệng, đâu phải chuyện chơi!
Còn tôi nghĩ rằng in được tập thơ Chân dung là việc cực khó. Phải thông qua một nhà xuất bản và các tổng biên tập đã có nhiều bài học chua cay trong việc này (…).
Làm sao mà tìm được một ông giám đốc xuất bản dám chịu trách nhiệm với mình. Có một nhà văn làm giám đốc một nhà xuất bản ở địa phương đã đến tuổi hưu, ông đang làm thủ tục. Có người bạn quen đem tác phẩm đến, ông giám đốc biết là tác phẩm hay nhưng cũng có vấn đề nên còn e ngại. Ông bạn xúi ông làm sao sách in xong đúng vào lúc ông xách gói về vườn là yên chuyện. Giám đốc xuôi lòng, tác giả vui mừng về nhà chờ đợi, rồi một bức thư gởi tới: “Ông, sách của ông tôi đã làm xong thủ tục chỉ còn đem xuống nhà in thì anh em trong cơ quan họp lại nói với tôi, thủ trưởng sắp về hưu còn niêu cơm để lại cho anh em chẳng lẽ lại bị đập vỡ. Ông thông cảm nhé, là người nhà cả mà. Tôi vẫn giữ bản thảo, nếu ông cần tôi sẽ gửi trả”.
Mấy anh em văn nghệ ở Vũng Tàu thường hỏi tôi: “Anh vẫn định in tập Chân dung chứ? Liệu bao giờ thì in được?”. Một lần tôi buột miệng: “Năm 92 in được. Tôi nói vậy bởi thường nhẩm tính, năm 30 tuổi bắt đầu viết, năm 60 tuổi in ra, vừa lúc về hưu là đẹp. Vậy mà sau này khi sách in ra, có nhà văn lên án tôi là “cố ý in sách đúng vào năm kỷ niệm Hội Nhà văn 35 tuổi, là có dụng ý xấu”. (…).
Cuối năm 1991, anh Hoàng Lại Giang, nhà văn, trưởng chi nhánh Nhà xuất bản Văn học ở Sài Gòn xuống Vũng Tàu.
- Tôi xuống là để bàn với ông về việc in thơ Chân dung, ông đồng ý không? - Ông Hoàng vừa nói vừa cười.
- Đừng đùa làm tôi tổn thọ!
- Không chỉ ý riêng tôi mà đã được Giám đốc tôi đồng tình. Chuyện không dễ nhưng ông thử tính xem, bây giờ là thời điểm sau Đổi Mới, văn nghệ được “cởi trói”…
Việc đầu tiên là tôi nộp bản thảo để gửi ra Hà Nội duyệt. Chợt lóe lên một ý nghĩ, tôi nói: “Gửi ra Hà Nội, dù ông giám đốc Lữ Huy Nguyên ngồi trong phòng riêng đóng kín cửa mà đọc cũng không ổn, ông ấy sẽ cảm thấy những ánh mắt xuyên tường nhìn vào khiếp lắm. Hay là chúng ta mời ông ấy vào trong này coi như một chuyến đi nghỉ mát Vũng Tàu, rồi chúng ta làm việc. Ông ấy gật đầu là xong”.
Hoàng Lại Giang đồng ý tức thì.
Hôm sau, Giang gọi điện thoại với giọng hồ hởi: Lữ Huy Nguyên đồng ý và sẽ thu xếp vào sớm.
Những năm ở Hà Nội, tôi có quen biết anh Lữ Huy Nguyên. Anh tính lành, làm việc cẩn trọng và chu đáo. NXB Văn học do anh làm giám đốc có uy tín lớn. Ra được nhiều sách không chỉ đúng mà hay, có nhiều phát hiện đổi mới. Nhà văn cỡ tầm tầm như tôi mà có sách được in ở Văn học là hãnh diện lắm. Trong những lần gặp anh Nguyên chuyện trò, chưa bao giờ tôi đả động đến Chân dung. Nhưng tôi biết anh không thờ ơ với những bài “tai tiếng” ấy và anh lại càng biết, nếu in nó ra thì sẽ thế nào. Tôi còn biết cấp trên rất chú ý đến tài đức của anh và việc cất nhắc anh lên bậc cao hơn là chuyện có thực và rất gần.
Khoảng một tuần sau, anh Nguyên và anh Giang có mặt ở nhà tôi. Sau một buổi chiều cùng nhau đi dạo loanh quanh thành phố, buổi tối chúng tôi làm việc. Tôi mời Lữ Huy Nguyên ra bãi biển. Ngồi trên chiếc ghế đá, dưới ngọn đèn sáng, chúng tôi thông qua từng bài thơ một và trao đổi một số ý kiến ban đầu. Trong khung cảnh trời cao biển rộng, chúng tôi chẳng e ngại điều gì, bộc lộ hết ý nghĩ, thỉnh thoảng còn xen vào những chuyện đời, chuyện người, và không thiếu những tràng cười thú vị. Đến khuya, chúng tôi mới quay về.
Sáng hôm sau, thêm anh Hoàng Lại Giang bàn bạc, có thể tóm tắt như sau. Anh Nguyên đề nghị bỏ hai bài.
Ngoài ra, còn sửa hai chữ ở hai bài khác. Tôi chấp nhận dù hơi tiếc, và “điều” luôn hai bài khác ngồi ghế dự bị vào sân cỏ.
Lữ Huy Nguyên nói với tôi bằng giọng nghiêm túc và nhã nhặn vốn có:
- Tôi đề nghị anh cho nhà xuất bản chúng tôi được ấn hành tập thơ này. Tôi muốn hỏi anh vài chuyện bên lề có được không?
- Vâng, mời anh.
- Nghe nói có người nước ngoài tới mua bản thảo tập thơ?
- Có hai người, một từ Nhật đến gặp tôi, một người Mỹ qua trung gian.
- Họ đặt số tiền ứng trước khá lớn?
- Với ta thì thật lớn. Tôi tính ra một nhà văn xứ ta viết được quyển tiểu thuyết nghìn trang, với chất lượng xứng tầm thời đại thì nằm mơ cũng không nghĩ đến số tiền nhuận bút như vậy. Người Nhật còn hứa với tôi xin phép Nhà nước Việt Nam để xuất bản hợp pháp.
- Và anh từ chối?
- Đơn giản là vì tôi tâm niệm phải xuất bản trong nước.
Chúng tôi ôm nhau chia tay.
Hai hôm sau, Hoàng Lại Giang trở lại, đem theo bản thảo, một xấp giấy can và mấy cây bút kim:
Nhà văn Hoàng Lại Giang - người đề xuất in “Chân dung nhà văn”
- Cái khó nó ló cái khôn, tôi nghĩ ta đưa vào nhà in để họ xếp chữ là không ổn. Vì vậy, tôi đem giấy bút đặc biệt xuống để ông viết tay các bài thơ, viết bằng chữ thường, chữ mẫu mà hồi bé chúng ta phải tập ấy. Khi đưa vào nhà in cứ thế họ cho vào máy chạy. Cùng lắm hai ngày là gọn ba nghìn cuốn theo số lượng mà nhà xuất bản đăng ký.
Tôi bắt tay ngay vào việc. Tôi nắn nót viết cái thứ chữ tập viết hồi xưa ở trường làng với ông hương sư mặc áo dài the đen đứng lớp cầm tay thước gõ vào ngón tay học trò. Gọn một ngày tôi viết xong, Hoàng Lại Giang ưng ý đem về Sài Gòn và êm đẹp làm sao, sau một tuần tôi nhận được điện đi lấy sách.
Xe dừng trước nhà xuất bản gần chùa Vĩnh Nghiêm. Tôi không xuống vội, qua cửa kính, tôi nhìn vào trong sân thấy đông người, trong đó có nhiều nhà văn mà tôi quen. Họ đến mua sách của tôi, người cầm vài ba cuốn, có người ôm nách hàng chồng. Có chuyện gì vậy, chẳng lẽ tác phẩm của tôi được chào đón đến vậy ư? Hoặc là cái của này không nhanh tay mà bị cấm thì hết mua? Tôi có một tâm trạng, một động thái kỳ cục, nhờ một người đi cùng vào nhận sách bản quyền và mua thêm đem ra rồi quay đầu xe dông thẳng về Vũng Tàu.
Trên xe, tôi nâng niu cuốn sách vừa vặn bàn tay, giống loại sách bỏ túi. 99 nhà văn và tôi nằm mỗi người một trang, chật chội một chút nhưng không ai chen lấn ai, nhòm ngó ai. Bìa cũng khá đơn giản, trên nền hoa văn li ti màu xám nhạt điểm một bông hoa màu đỏ. Tôi giở nhanh từng trang - chưa cần đọc lại vì in đúng như bản tôi viết tay nên không sợ mắc lỗi đến cuối sách thì hiện ra sự cố. Một tờ in rời dán vào, đó là “Lời cuối sách” của Nhà xuất bản mà tôi chưa được biết. Tôi xin trích ra một số đoạn chính:
… Đây là những ký họa có tính đặc tả của Xuân Sách, những chân dung vốn đã khá phổ biến trong và ngoài giới văn học suốt vài chục năm qua. Tác giả không nêu đích danh một ai, nhưng dưới nét bút phác thảo, những độc giả và người làm văn học vẫn có thể nhận ra từng đối tượng. Dĩ nhiên thể loại này thường cố ý phóng to những đặc điểm và khi nhìn vào những nét đặc tả ấy - tuy mất cân đối và đôi khi phiến diện - vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo, cốt cách từng nhân vật.
Chất vui hóm và nhất là khả năng chơi chữ có thể khiến người ta ngạc nhiên một cách thú vị, nhưng cũng có thể gây nên những sự không hài lòng đây đó.
Chúng tôi chỉ coi đây là nét tự trào của giới cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên các chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình, học hiểu mình thêm qua cách nhìn của người cùng hội cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí, ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.
…Rất mong độc giả và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết”.
Bìa cuốn “Chân dung nhà văn”, NXB Văn học, 1992
Một lần nữa tôi lại thông cảm với Lữ Huy Nguyên. Anh đã kịp thời dùng chiến thuật lập lá chắn phòng ngự trong bóng đá. Còn có cách nào khác khi đối phương có một hàng tiền đạo đông đảo và hăng hái tranh nhau bắn phá khung thành đối phương không thương xót, cố mà phòng thủ kéo dài được thời gian không bị thủng lưới chừng nào hay chừng ấy để có thể đưa sách ra thị trường.