Thương mại hóa KH-CN: Bài toán nhiều tham số

Thương mại hóa KH-CN: Bài toán nhiều tham số
Đổi mới - sáng tạo công nghệ theo hướng thương mại hóa đòi hỏi một tư duy liên ngành, theo định hướng thị trường và sự tâm huyết, dám phá bỏ các trì trệ, quan liêu của từng bộ, ngành riêng lẻ.

Tại hãng IBM, đề tài R&D (nghiên cứu và phát triển) chủ yếu đến từ khách hàng, bộ phận bán hàng của công ty (nơi tiếp xúc nhiều với khách hàng), thay vì do lãnh đạo công ty “đặt ra”.

Một trong những mục đích của phòng thí nghiệm “mở” (open lab) đang được áp dụng ở các nước tiên tiến là để khách hàng tham gia vào việc thiết kế sản phẩm, thay vì theo ý chủ quan của công ty. Qua đó, vừa tăng khả năng bán hàng, vừa tận dụng được chất xám của khách hàng. 

Ưu tiên ứng dụng công nghệ

Ứng dụng công nghệ ít tốn tiền đầu tư so với sáng tạo và có khi không cần bản quyền, vì công nghệ đã hết thời gian bảo hộ sở hữu trí tuệ. Tính “ứng dụng” thể hiện ở 2 mặt: Các viện khoa học tăng cường nghiên cứu ứng dụng thay vì nghiên cứu phát minh; Các công ty, cơ quan tăng ứng dụng công nghệ, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động sản xuất-kinh doanh-quản lý.

Áp dụng mô hình “nghiên cứu toàn phần” (full-research)

Đây là mô hình đang được áp dụng tại Viện Khoa học-Công nghệ tiên tiến của Nhật (AIST). Theo đó, sản phẩm của các dự án của Viện không dừng lại ở thiết kế cái máy hay quy trình công nghệ mà là phải bao gồm cả việc thương mại hóa chúng. Như vậy, việc “nghiên cứu” mới được quan niệm là “toàn phần”.

Cũng cần quan niệm lại về khái niệm “KH-CN”. Đề án KH-CN phải bao gồm khả năng “bán được kết quả nghiên cứu”. “Công nghệ” không chỉ là “kỹ thuật” mà là “kỹ thuật có - thể-bán được”. Để làm được như vậy, các bộ phận liên quan đến sản xuất, kinh doanh, KH-CN… phải cùng nhau để lập các dự án.

Triển khai SSME

Muốn thương mại hóa công nghệ, cần phát triển các dịch vụ công nghệ. Đây là công cụ giúp đem công nghệ đến với người mua công nghệ. Tỷ lệ các công ty dịch vụ trong công nghệ thông tin ngày càng tăng so với các công ty trực tiếp làm công nghệ thông tin. Ngành dịch vụ đã rất phát triển nhưng ngành Khoa học dịch vụ (service science) còn chưa phát triển tương xứng.

Ngoài ra, công nghệ không thể thương mại hóa hiệu quả khi chưa cùng lúc giải quyết vấn đề liên quan về quản lý, kỹ nghệ. Hãng IBM đề xuất SSME (service science, management, engineering - khoa học dịch vụ, quản lý, kỹ nghệ) thành một ngành trong trường đại học.

Cần nghiên cứu công nghệ theo phạm vi của SSME. Công nghệ không tách rời mà luôn gắn với quản trị sản xuất- kinh doanh của công nghệ đó.

Phát triển các khu công nghệ

Khu công nghệ cần gần trường đại học, viện nghiên cứu, nơi tập trung nhiều công ty, thường là khu dân cư, đô thị. Khu công nghệ là nơi thuận tiện để tạo ra các cụm công nghệ, công nghiệp.

Khu công nghệ thực chất cũng mang chức năng ươm tạo doanh nghiệp công nghệ, ươm tạo công nghệ, hỗ trợ công nghệ, dịch vụ công nghệ, phát huy tính cộng năng, nơi thuận tiện cho các hoạt động của SSME, thúc đẩy (thậm chí là điều kiện cho) đầu tư nước ngoài. Ưu tiên các khu có quy mô nhỏ, thuộc các trường đại học, viện, địa phương, công ty (để gắn với hiệu quả, tiết kiệm đầu tư, trong tầm quản lý).  

Ưu tiên nghiên cứu “giải mã” công nghệ

Thực chất của “giải mã” công nghệ là xem thế giới họ làm gì, làm như thế nào, từ đó mới tính ta nên làm cái gì. Có biết vị trí của ta so với thế giới mới có thể đề ra một “lộ trình” (road map) về công nghệ (technology map).

Đó là: các bước để ta nâng cấp công nghệ, cái gì ta tự làm lấy, cái gì ta nên mua bản quyền, bộ phận nào của cái máy ta mua bản quyền, bộ phận nào ta tự nghiên cứu hoặc thay thế bằng bộ phận khác,… Không chỉ giải mã công nghệ đơn lẻ (từng cái máy) mà cả các giao diện của công nghệ với chuỗi giá trị chứa công nghệ đó, với thị trường, với hiệu quả kinh tế. 

Chọn “công nghệ cao” hay “hiệu quả kinh tế cao”?

“Công nghệ mới” có thể nói lên khả năng phát minh, tính thông minh nhưng chưa chắc gắn với tính lợi nhuận. Hiện vẫn còn nhiều ưu tiên cho tiêu chí “công nghệ mới” (thậm chí là điều kiện) để cấp phát kinh phí KH-CN, để chọn vào khu công nghệ cao, vườn ươm doanh nghiệp công nghệ…

Công nghệ cao nhưng khả năng ứng dụng thấp, diện ứng dụng hẹp thì chưa chắc đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với công nghệ “thấp” nhưng bán được nhiều hơn.

Chú trọng nghiên cứu để giải quyết công nghệ nước ngoài

Ấn Độ, Trung Quốc đang tiến rất nhanh để thành các địa chỉ tin cậy về R&D của thế giới. Các trường đại học, viện nghiên cứu nên có các trung tâm ứng dụng, hỗ trợ công nghệ, tăng cường chế độ thỉnh giảng viên, giáo sư mời… để tăng cường khả năng “nhận đặt hàng” nghiên cứu công nghệ của nước ngoài.

Đào tạo đại học cũng gắn với nhu cầu chất xám của thế giới, khu vực. Cái khó là nhắm vào thị trường nào (từ đó, đào tạo theo chuẩn nào)? Cần nghiên cứu kỹ về thị trường và khả năng đáp ứng của ta.

Ưu tiên các dự án “cầu nối”

Các dự án “cầu nối” thường ít được giới kinh doanh chú ý đầu tư vì chưa thấy khả năng sinh lời. Ở đây, rất cần sự tham gia của vườn ươm, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ hỗ trợ công nghệ... Rất nên áp dụng mô hình đồng tài trợ (giữa công ty, bên công nghệ, bên hỗ trợ công nghệ) cho giai đoạn này.

Chính sách KH-CN hướng vào thị trường

Khu vực tư nhân sẽ chiếm thị phần lớn và ngày càng tăng trong thị trường công nghệ. Thị trường là người đặt hàng, là “Bên A”, cho KH-CN. Cơ chế cấp phát, quản lý kinh phí nhà nước cho KH-CN cần thích hợp với cơ chế hoạt động của doanh nghiệp thay vì cho cơ quan KH-CN của nhà nước. Nhà nước không nên cấp kinh phí đơn lẻ mà nên đồng tài trợ (với khu vực tư nhân) cho các nghiên cứu KH-CN. 

Thành lập “Hệ thống quốc gia về sáng tạo-đổi mới”

Tất cả những điều nêu trên cần nằm trong một chương trình nhà nước và do một tổ chức điều phối. Đó là “Hệ thống quốc gia về sáng tạo - đổi mới” (NIS), tổ chức đã được thành lập ở hầu hết các nước.

Để tiến tới NIS, cần thành lập tổ công tác (taskforce) về NIS. NIS mang tính liên ngành cao (như SSME) và trước mắt, nên bao gồm: KH-CN, công thương, đầu tư nước ngoài, đào tạo đại học.

Theo TS Đinh Thế Phong
Vụ Công nghệ cao – Bộ KH-CN
Sài Gòn giải phóng

MỚI - NÓNG