TPO - Bên cạnh những tác dụng điều trị, một số loại thuốc còn ẩn chứa rất nhiều tác dụng phụ nguy hiểm. Trong số đó, thuốc Thalidomide được sử dụng trong những năm 60 của thế kỉ XX đã được ghi nhận có những tác dụng phụ khủng khiếp, mà sau này người ta phải gọi vụ bê bối y khoa này là “Thảm họa Thalidomide”.
1. Được tìm ra bởi một bác sĩ Đức Quốc Xã
ThuốcThalidomide được đưa ra thị trường lần đầu tiên trên thế giới bởi công ty dược Gruenenthal của Đức, nó được sản xuất và lưu hành từ cuối thập niên 50 đến đầu thập niên 60 thế kỷ XX. Thuốc do bác sĩ Heinrich Mueckter, một thành viên Đức Quốc xã, chủ trì việc nghiên cứu phát minh, điều chế. Ông là một bác sĩ, nhà nghiên cứu giỏi của nước Đức thời bấy giờ.
Thuốc Thalidomide được lưu hành vào những năm 60 của thế kỉ XX.
Ngày 1/10/1957, sau một thời gian nghiên cứu, thử nghiệm, biệt dược Thalidomide chính thức được lưu hành trên thị trường. Thalidomide có tên thương mại là Thalomid (ở Mỹ), Contergan (ở châu Âu) hay Softnon ở Australia. Trong thời gian đầu được đưa vào sử dụng. Thời gian đầu, loại thuốc này đã chứng tỏ khả năng giảm đau, an thần vô cùng hiệu quả và đặc biệt nó rất có hiệu lực với chứng nôn vào buổi sáng ở phụ nữ có thai.
Tại thời điểm phát triển của loại thuốc này, các nhà khoa học không tin bất kỳ loại thuốc nào được uống bởi phụ nữ mang thai có thể vượt qua hàng rào nhau thai và gây tổn hại cho bào thai đang phát triển.
2. Thảm họa Thalidomide
Hình ảnh những nạn nhân của thảm họa Thalidomide.
Chỉ sau một thời gian ngắn được lưu hành, từ năm 1957 đến đầu năm 1962, đã có 46 quốc gia sử dụng Thalidomide. Đầu những năm 1960, các bác sĩ bắt đầu lo ngại về tác dụng phụ của Thalidomide khi họ ghi nhận có những bệnh nhân bị tổn thương thần kinh chân tay sau khi sử dụng lâu dài loại thuốc này. Trong thời gian này, tỷ lệ sinh non và trẻ em khuyết tật được sinh ra ở Đức và nhiều nơi khác tăng cao. Năm 1961, nhà khoa học Đức Widukind Lenz và nhà khoa học Australia William McBride đã độc lập công bố những nghiên cứu của mình về tác dụng phụ của Thalidomide.
Sau đó, Thalidomide đã bị cấm sử dụng nhưng đối với nhiều người thì mọi chuyện đã quá muộn. Tổng cộng trên toàn thế giới đã có khoảng từ 10.000 đến 20.000 trẻ em sinh ra bị dị tật. Trong đó, tại Đức có với ít nhất 3.000 người, kế đến là Anh với ít nhất 2.000 nạn nhân. Trong khi Mỹ, Brazil… có vài trăm nạn nhân mỗi nước.
Thảm họa Thalidomide là “cú sốc” rất lớn cho giới y khoa thời bấy giờ. Nó đã đặt ra cho các nhà khoa học và các bác sĩ vấn đề rất lớn trong việc thử nghiệm thuốc trước khi đưa ra thị trường. Đây còn là lời cảnh báo cho việc sử dụng thuốc cho các sản phụ, ngày nay người ta đã tìm ra có rất nhiều thuốc qua được hàng rào nhau thai để gây hại cho thai nhi.