Trải qua bao cuộc bể dâu
Đợt “Võ Chu diệt Phật” do Bắc Chu Võ Đế là Vũ Văn Hỗ phát động kéo dài 5 năm từ năm 574 đến 578, Thiếu Lâm Tự lần đầu tiên bị tàn phá nghiêm trọng. Phật tượng, tháp miếu bị hủy; tăng phòng, phật điện bị đốt, chùa chiền phương bắc Trung Hoa cơ hồ tuyệt diệt, tăng chúng trốn cả về Giang Nam.
Ngày nay trong Thiếu Lâm Tự còn tấm bia “Thiếu Lâm Tự bi” khắc vào đời Đường có chép: “Trong khoảng năm Kiến Đức của Chu Võ Đế, tiếp nạp cái thuyết của Nguyên Tung, diệt hai giáo Thích và Lão, những cảnh già lam đều bị phế hủy”.
Đợt “Hội Xương pháp nạn” từ năm 842 đến 846, Đường Võ Tông ra lệnh cấm thờ phật, phá chùa chiền, Có đến hơn 4.600 ngôi chùa lớn, hơn 40.000 chùa nhỏ bị hủy hoại; tăng ni bị hoàn tục hơn 260.000 người.
Đến năm Hiển Đức thứ hai đời Hậu Chu Thế Tông (955), Hoàng đế nhà Chu ra lệnh chùa nào không phải vua sắc tứ thì đều phải phá bỏ, ai mà cha mẹ không người nuôi dưỡng thì không được xuất gia, tất cả tượng Phật bằng đồng đều tịch thu để đúc tiền. Mấy trận “hủy pháp diệt Phật” xảy ra khiến Phật giáo phương bắc Trung Hoa bị ảnh hưởng nặng nề, Thiếu Lâm Tự cũng cùng chung cảnh ngộ.
Võ công Thiếu Lâm phát triển rực rỡ qua các triều Đường, Tống, Nguyên, Minh do được triều đình che chở, có đặc quyền huấn luyện tăng binh, trở thành “tu viên quân sự” lừng danh nhất.
Đến đời Thanh, do triều đình kiểm soát gắt gao, nghiêm cấm luyện võ nên các võ tăng Thiếu Lâm Tự áp dụng nhiều biện pháp kín đáo để truyền bá võ công, như nói thác là luyện tập thuật đạo dẫn, hoặc mượn cớ vân du giáo hóa chúng sinh để đi khắp nơi, truyền thụ võ nghệ ở bên ngoài để tránh ảnh hưởng đến bổn tự. Các cao thủ võ lâm nổi tiếng đời Thanh được ghi vào “Thanh sử” như đại hiệp Cam Phượng Trì, Bạch Thái Quan, Lã Tứ Nương, Mã hòa thượng Miễu Tăng… đều xuất thân từ Thiếu Lâm Tự hoặc được truyền thụ võ công Thiếu Lâm. Do đó mới có câu: “Thiên hạ võ công xuất Thiếu Lâm/ Thiếu Lâm cao thủ tại tứ phương”.
Thiếu Lâm Tự trải qua nhiều tai kiếp, nhưng có lẽ trận hỏa thiêu vào năm 1928 (nhị bát hỏa ách) là gây tang thương kinh hoàng nhất. Kẻ gây ra nạn tai này là Thạch Hữu Tam (1891-1940), tự Hán Chương, một đời phản phúc vô thường, trước sau từng đầu quân cho Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn, Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ, Trương Học Lương, quân Nhật Bản nhưng rồi đều làm phản lại, nên có xú danh là “Đảo qua tướng quân” – tướng trở giáo, phản bội.
Dẹp thổ phỉ có công
Vào những năm đầu thời kỳ Dân quốc, Thiếu Lâm Tự có tăng chúng hơn 200 người, ruộng đất hơn 1.370 mẫu, nhưng tình cảnh đã ngày một suy.
Từ sau khi Viên Thế Khải chết (1916) trở đi, Trung Quốc loạn lạc, quân phiệt cát cứ hỗn chiến khắp nơi, thổ phỉ hoành hành, sinh linh đồ thán. Lúc này các địa phương phải tổ chức Dân đoàn, tổ chức đơn vị võ trang để tự bảo vệ. Trụ trì Thiếu Lâm Tự lúc này là Hằng Lâm hòa thượng (1865-1923), võ nghệ cao cường, được chính quyền cử làm Tăng hội ty huyện Đăng Phong, Tổng đoàn trưởng Đoàn bảo vệ Thiếu Lâm Tự, mua sắm vũ khí, huấn luyện tăng binh. Tình thế khiến Hằng Lâm phải “lấy tấm lòng Bồ tát làm bộ mặt Kim Cang”.
Chân dung kẻ ra lệnh hỏa thiêu Thiếu Lâm Tự.
Mùa thu năm Dân quốc thứ 9 (1920), hạn hán mất mùa, thổ phỉ nổi lên. Hằng Lâm thống lĩnh dân đoàn, tại huyện thành Đăng Phong, Thê Tử Câu, Bạch Ngọc Câu giao chiến với các băng thổ phỉ mười mấy trận đều đánh thắng cả. Lớn nhất là trận bọn phỉ do Chu Bảo Thành, Tôn Thiên Chương, Ngưu Bang cầm đầu đi cướp ở thị trấn Lỗ Trang, bị Hằng Lâm dẫn tăng binh chặn đánh, tiêu diệt hầu hết, lấy được rất nhiều súng ống, đạn dược đem về cất giữ trong Thiếu Lâm Tự. Hằng Lâm anh dũng thiện chiến, danh tiếng lẫy lừng, thổ phỉ không dám mạo phạm, mười mấy địa phương quanh Thiếu Lâm Tự đều được yên ổn. Chủ tịch tỉnh Hà Nam là Trương Phụng Đài tặng Hằng Lâm bằng khen, huy chương và biển đề “Uy linh phổ chiếu”.
Tháng 10- 1923, Hằng Lâm do tích lao thành bệnh, qua đời lúc 59 tuổi, dân chúng 4 huyện Củng, Đăng Phong, Yển Sư, Lâm Nhữ đã lập bia tưởng niệm.
Đệ tử của Hằng Lâm là Diệu Hưng (1898-1927) thay thầy gánh vác trọng trách. Diệu Hưng vốn họ Kim, tự là Hào Văn, 8 tuổi lên Thiếu Lâm Tự bái Hằng Lâm làm thầy, luyện tập võ nghệ, bản lĩnh hơn người, được gọi là “Kim La Hán”.
Diệu Hưng hòa thượng muốn phát triển Thiếu Lâm võ công đã phá vỡ lệ mật truyền, thu nhận nhiều đệ tử tục gia, phổ biến nhiều trước tác như Thiếu Lâm quyền giải, Thiếu Lâm côn giải, Đạt Ma ngũ quyền kinh, Thần trượng đồ giải, Thiếu Lâm thông phái uyên nguyên thế hệ đồ giải...
Rơi vào vòng nguy hiểm
Trong số đệ tử của Hằng Lâm sư phụ, có Phàn Chung Tú cũng là một kỳ nhân. Phàn lúc nhỏ từng lên Thiếu Lâm tự tu thiền luyện võ, sau xuống núi dựa vào bản lĩnh võ nghệ đến vùng Thiểm Bắc chiêu mộ di dân, lập thành dân đoàn, hợp tác với quân Tĩnh Quốc, danh tiếng lẫy lừng. Phàn Chung Tú từng được Tôn Trung Sơn mời đến Quảng Châu khen thưởng và ủy nhiệm làm Tổng tư lệnh quân Kiến quốc.
Lúc này các thế lực quân phiệt thu gom địa bàn, đánh nhau quyết liệt. Vùng Đăng Phong, Hà Nam là nơi nhắm tới của tập đoàn quân phiệt Bắc Dương Phùng Ngọc Tường và đối thủ là quân Trực hệ của Ngô Bội Phu. Phùng Ngọc Tường cho người liên lạc, ý muốn thu phục quân Kiến quốc của Phàn Chung Tú, nhưng Phàn không theo mà ngả sang phía Ngô Bội Phu để chống lại cả quân Quốc dân của Tưởng Giới Thạch vốn là đồng minh trước đó.
Thạch Hữu Tam (cưỡi ngựa) vào Thiếu Lâm Tự.
Năm 1922, Phàn Chung Tú theo lệnh của Ngô Bội Phu đến Đăng Phong để thu phục nhóm phỉ có thực lực nơi này do Nhậm Ứng Kỳ, Trần Thanh Vân cầm đầu. Khi qua Thiếu Lâm Tự, Phàn vào viếng thăm, gặp sư đệ Diệu Hưng, thấy cảnh chùa bị hư hại mới quyên tặng 400 đồng bạc – món tiền rất lớn để tu sửa Đại hùng bảo điện. Do đó, tăng chúng trong chùa rất có cảm tình với Phàn.
Vào mùa thu năm 1923, Trương Ngọc Sơn theo lệnh Ngô Bội Phu chiêu binh mãi mã ở Hà Nam, lập Sư đoàn biệt động số 1, biết đoàn tăng binh Thiếu Lâm Tự thiện chiến lại có vũ khí trong chùa nên tìm cách lôi kéo. Dưới tác động của Phàn Chung Tú, trụ trì Diệu Hưng trở thành Đoàn trưởng Đoàn 1, Lữ đoàn 1 và Thiếu Lâm Tự chính thức nằm trong biên chế tập đoàn quân phiệt Trực hệ của Ngô Bội Phu. Diệu Hưng nhiều lần dẫn quân chi viện cho Phàn Chung Tú đánh nhau với quân của Cảm Ngọc Côn.
Tháng 7-1926, quân Quốc dân của Tưởng Giới Thạch tiến hành Bắc phạt để dẹp tình trạng quân phiệt cát cứ. Lúc này Phùng Ngọc Tường tuyên bố thoát ly quân phiệt Bắc Dương, tham gia quân của Tưởng, hình thành Quốc dân liên quân. Ngô Bội Phu liền liên kết với Trương Tác Lâm đánh Phùng nhưng bị liên quân đánh bại. Mùa xuân năm 1927, Phùng Ngọc Tường chiếm Tây An, tấn công Hà Nam. Hòa thượng Diệu Hưng suất lĩnh quân đoàn 1 của Ngô Bội Phu tác chiến ở Trịnh Châu, Vũ Dương. Ngày 3-6-1927, trong trận giao chiến với quân Phùng Ngọc Tường, Diệu Hưng bị trúng đạn qua đời, lúc ấy mới 37 tuổi. Di thể được đệ tử đưa về Thiếu Lâm Tự, táng ở sườn núi phía bắc của chùa.
Tháng 3-1928, Phàn Chung Tú thừa cơ hậu phương của Phùng Ngọc Tường bị trống bèn tập kích chiếm được hai huyện Yển Sư và Củng, tỉnh Hà Nam. Nhưng không lâu sau đó, bộ tướng của Phùng là Thạch Hữu Tam (1891-1940) chiếm lại. Lúc này Thạch Hữu Tam đang là Chỉ huy trưởng Lộ thứ 5 Liên quân kiêm Tư lệnh cảnh bị Lạc Dương, đang nắm trong tay 6 vạn quân thiện chiến, vũ khí hiện đại từ Liên Xô, còn Phàn Chung Tú chỉ có hơn vạn quân không phải chính quy, vũ khí chủ yếu chế tạo ở Hán Dương nên xét về tương quan lực lượng thì đúng là lấy trứng chọi đá. Nhưng Phàn Chung Tú ỷ thế địa lợi, am hiểu địa hình, lại có Dân đoàn địa phương và đội tiên phong tăng binh Thiếu Lâm Tự thiện chiến.
Trước thế công của Thạch Hữu Tam, Phàn Chung Tú rút quân về hướng nam, tấn công huyện thành Đăng Phong, bộ tư lệnh chỉ huy đều đặt cả vào trong khuôn viên Thiếu Lâm Tự. Thạch Hữu Tam truy kích về hướng nam, hai bên giao chiến ác liệt, tại Hiên Viên Quan (Thập Bát Ban) được sự hỗ trợ của tăng binh Thiếu Lâm Tự, quân của Phàn Chung Tú rút sâu vào vùng núi của huyện Tung còn đoàn tăng binh cũng bị tan vỡ.
Ngày 15-3-1928, Thạch Hữu Tam truy quét đến Thiếu Lâm Tự, biết bộ chỉ huy của Phàn Chung Tú đặt trong chùa nên ra lệnh bắn pháo, phóng hỏa đốt pháp đường. Ngày hôm sau, theo lệnh của Thạch Hữu Tam, chỉ huy quân Quốc dân đóng ở Đăng Phong là lữ trưởng Tô Minh Khải cho quân lính đem dầu vào Thiếu Lâm Tự rưới đốt toàn bộ. Lửa cháy đến 40 ngày, những điện Thiên Vương, Đại Hùng, Khẩn Na La, Lục Tổ, Diêm Vương, Long Vương, Tàng kinh các, các nhà ăn, nhà kho, thiền đường đông tây, phòng Ngự tọa, lầu chuông trống... đều thành tro bụi.
Ngày 1-11-1936, nhân mừng thọ lần thứ 50 của mình, Tưởng Giới Thạch đã đến Đăng Phong, lên Tung Sơn du lãm Thiếu Lâm Tự. Lúc này Thiếu Lâm Tự vừa qua cơn hỏa ách được 8 năm, tự viện điêu tàn, tăng chúng chỉ còn khoảng 50 người.
Trưởng huyện Đăng Phong là Mao Nhữ Thái theo chân Tưởng Giới Thạch làm hướng dẫn viên. Tưởng Giới Thạch rất hứng thú với lịch sử và kiến trúc của “Thiền tông đệ nhất tổ đình” Thiếu Lâm Tự. Khi qua Đạt Ma động, Mao huyện trưởng nói trước đây có hòn đá in hình của Đạt Ma sư tổ rất trang nghiêm, được thâu tàng trong Tàng kinh các nhưng đã bị Thạch Hữu Tam pháo kích phá hủy cùng bao nhiêu công trình kiến trúc khác bị hỏa thiêu. Tưởng Giới Thạch trầm tư một lúc rồi than: “Thạch Hữu Tam phá hoại ghê thật!”.
Mùa đông năm 1991, đoàn võ tăng Thiếu Lâm Tự do Thích Vĩnh Tín dẫn đầu đến Nhật Bản, tại chùa Đạt Ma ở Tokyo tình cờ phát hiện 48 tấm ảnh Thiếu Lâm Tự được chụp vào năm 1920 rất quý hiếm. Nhờ đó mà phục dựng được mô hình Thiếu Lâm Tự với những kiến trúc theo trục tuyến mà đã bị Thạch Hữu Tam hỏa thiêu.
Riêng về Thạch Hữu Tam về sau lại phản Phùng Ngọc Tường, theo Tưởng Giới Thạch, rồi phản Tưởng Giới Thạch theo Trương Học Lương, rồi phản Trương Học Lương theo Bát lộ quân, rồi lại phản Bát lộ quân theo phát xít Nhật. Do sợ tính cách tráo trở, phản phúc nên ngày 1-12-1940, các sĩ quan thân cận như Tàng Bá Phong, Cao Thụ Huân, Tất Quảng Thản lập mưu bắt Thạch Hữu Tam sau đó ra lệnh chôn sống bên bờ sông Hoàng Hà. Một kết cục có thể dự báo trước được với một kẻ phản phúc như Thạch Hữu Tam.