Phát triển đồng bằng sông Cửu Long cần theo hướng thích nghi có kiểm soát

0:00 / 0:00
0:00
TPO - Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng trọng yếu về an ninh lương thực của quốc gia, tuy nhiên vùng lại dễ tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu. Ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn, nhiều công trình thủy điện thượng nguồn sông Mê Kông khiến cho vùng này phải đối mặt với sụt lún, sạt lở đất... Để rõ lớn thực trạng và giải pháp cho vùng, PV có cuộc trao đổi với ông Trần Bá Hoằng - Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam (Bộ NN&PTNT).

- Thưa ông, tình hình khô hạn tại ĐBSCL trong những năm gần đây như thế nào?

Ông Trần Bá Hoằng: Từ năm 2015 đến nay, ĐBSCL trải qua 2 năm hạn mặn cực đoan, mùa khô 2015-2016, 2019-2020. Năm nay, hạn mặn cũng cao hơn trung bình nhiều năm. Dựa trên những dự báo sớm, dự báo chuyên ngành, Bộ NN&PTNT và các địa phương đã có những chỉ đạo điều hành sản xuất.

Hiện, vùng ĐBSCL chịu tác động của 3 yếu tố chính, gồm nguồn nước thượng lưu sông Mê Kông, nước biển dâng – biến đổi khí hậu và tình hình nội tại do phát triển kinh tế xã hội. Là vùng non trẻ nên chịu tác động rất lớn.

Phát triển đồng bằng sông Cửu Long cần theo hướng thích nghi có kiểm soát ảnh 1

Ông Trần Bá Hoằng - Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam trình bày tại hội thảo diễn ra ở TP Cần Thơ.

- Những công trình được đầu tư mang lại hiệu quả như thế nào trong ứng phó biến đổi khí hậu tại ĐBSCL?

Ông Trần Bá Hoằng: Những năm qua, những dự báo, đầu tư công trình, chỉ đạo quyết liệt của Bộ NN&PTNT và các địa phương đã mang lại kết quả tốt, khi chủ động có dự báo sớm sẽ giảm rất nhiều tác động và thiệt hại.

Năm nay, với tinh thần vào cuộc sớm, mặc dù hạn mặn cao hơn trung bình nhiều năm, có thời điểm vào sâu hơn cả năm 2016, nhưng đến thời điểm này, thiệt hại chỉ xảy ra ở một số nơi do canh tác ngoài khuyến cáo.

Trong vùng đã được đầu tư những dự án thủy lợi lớn như: Cái Lớn - Cái Bé mang lại hiệu quả cho vùng Hậu Giang, Kiên Giang; hay cống Nguyễn Tấn Thành ở Tiền Giang mặc dù chưa xong nhưng đã kịp thời kiểm soát, nhất là bảo vệ nhà máy nước Đồng Tâm Tiền Giang.

Cần xem hạn mặn đã là thuộc tính của ĐBSCL, xảy ra hằng năm, chỉ khác nhau là cao hay thấp. Cần quan tâm công tác dự báo, để chủ động. Cùng với đó là chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, giải pháp công trình hỗ trợ, phục vụ nhu cầu chuyển đổi, để không phải lo đi chống hạn mặn.

Phát triển đồng bằng sông Cửu Long cần theo hướng thích nghi có kiểm soát ảnh 2

Người dân Bến Tre chở nước ngọt về nhà sinh hoạt trong mùa hạn mặn.

- Ông khuyến nghị gì cho việc phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu tại vùng ĐBSCL?

Ông Trần Bá Hoằng: ĐBSCL đã, đang và vẫn là vùng trọng điểm nông nghiệp của cả nước, với nhiều lợi thế vượt trội về tài nguyên thiên nhiên đặc thù cho nông nghiệp; có lợi thế cạnh tranh cao so với các vùng khác trên thế giới.

Tuy nhiên, ĐBSCL đang chịu các tác động ngoại biên nghiêm trọng, không thể đảo ngược được, bao gồm việc phát triển thượng lưu Mê Kông làm suy giảm phù sa và thay đổi quy luật dòng chảy; tình trạng biến đổi khí hậu – nước biển dâng; và tác động do phát triển nội tại gây lún sụt đất, hạ thấp Đồng bằng với mức độ rất nghiêm trọng.

Dưới các tác động lớn với mức độ ngày càng tăng, ĐBSCL đang dần được định hình lại (so với lịch sử), với các đặc trưng cơ bản mới bất lợi hơn rất nhiều so với tự nhiên trước đây.

Việc phát triển ĐBSCL cần theo hướng thích nghi có kiểm soát, chủ động tạo ra chế độ nước hợp lý trên nền chế độ tự nhiên, làm giảm mức độ rủi ro, bấp bênh trong các hoạt động kinh tế xã hội.

- Vậy giải pháp cụ thể ra sao, thưa ông?

Ông Trần Bá Hoằng: Bên cạnh các giải pháp phi công trình (công tác điều hành), thì giải pháp phi công trình rất quan trọng. Đó là các công trình để trữ nước, như trữ trong hệ thống kênh, rạch các cấp của các hệ thống thủy lợi hiện nay có khả năng đạt 2,5-3 tỷ m3. Trữ nước trong mương vườn bằng cách lên liếp, tạo mương trữ nước giữa các hàng cây; đào ao, bể phân tán quy mô hộ, nhóm hộ gia đình.

Trữ nước trên ruộng (đối với lúa), trước thời điểm dự báo có đợt xâm nhập mặn, bơm nước lên ruộng ở mức tối đa khả năng cho phép của cây trồng. Trữ nước trong lu, bể, các dụng cụ trữ nước phục vụ sinh hoạt cho các hộ dân phân tán, nguồn nước khó khăn trong mùa khô.

ĐBSCL không thiếu nước, trong mùa khô nước vẫn về ĐBSCL 60 - 70 tỷ mét khối, trong khi nhu cầu sử dụng chỉ khoảng 15 tỷ mét khối. Vấn đề là giữ nước để sử dụng.

Bên cạnh đó, các công trình thủy lợi nội đồng, như công trình phục vụ Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL; hình thành các ô thủy lợi hoàn thiện, đồng bộ để chủ động cấp nước, tiêu thoát nước, trữ nước, đáp ứng được các yêu cầu hiện đại hóa trong sản xuất.

Các công trình để kiểm soát nguồn nước, xâm nhập mặn, như xây dựng các công trình kiểm soát cửa sông Vàm Cỏ, Hàm Luông, đây là các công trình lớn, bao ngoài với nhiệm vụ điều tiết mặn, ngọt, cải thiện môi trường ở các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre.

Đồng thời nghiên cứu, thực hiện việc xây dựng công trình kiểm soát các cửa sông còn lại như Cổ Chiên, Cung Hầu…). Nâng cấp hệ thống đê biển đã được Chính phủ phê duyệt, bao gồm việc xem xét nâng cao và mở rộng mặt đê cho phù hợp với gia tăng đỉnh triều.

Ngoài các giải pháp trên, cần nâng cấp hệ thống cấp nước sinh hoạt nông thôn cho người dân vùng ĐBSCL. Trong đó, ở vùng ngọt và vùng ngọt có ảnh hưởng mặn thì sử dụng nguồn nước từ sông chính, các kênh trong hệ thống thủy lợi (sông Tiền, sông Hậu, sông Cổ Chiên, sông Hàm Luông cho những khu vực gần sông chính tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre và Tiền Giang).

Với các vùng mặn ngọt luân phiên và vùng lợ mặn thì sử dụng kết hợp các nguồn: Dẫn nước từ vùng ngọt về, sử dụng nước ngầm (hạn chế), xây dựng hồ trữ nước ngọt. Cùng với đó là xây dựng các hồ chứa phân tán.

- Xin cảm ơn ông!

MỚI - NÓNG