Đọc bài viết của Trần Bảo Hưng và hồi ký của chính tác giả in trong cuốn sách tôi mới biết thêm nhiều điều về nhà báo Lê Văn Ba, người đã từng là sếp cũ của tôi trong nhiều năm ở báo Tiền Phong.
Lê Văn Ba đã hoạt động trong tổ chức thanh niên Hà Nội thời chống Pháp, có lần bị bắt, bị giam hơn một năm ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Ông đã có mấy cuốn sách viết về nhà tù như “Kể chuyện nhà tù Hỏa Lò” (2004), “Thơ viết trong nhà tù Hỏa Lò” (2006), “Nhà tù Hỏa Lò, trường học yêu nước và cách mạng” (2009).
Tuy những tư liệu trong cuốn “Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược” không mới, nhưng việc tập hợp được những tư liệu như vậy, nhất là việc lý giải được xuất xứ, lịch sử ra đời của những tư liệu đó quả là đáng quý, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà văn hóa đọc, khi mà lớp trẻ nhiều người còn có biểu hiện thờ ơ, thiếu hiểu biết cặn kẽ lịch sử văn hóa cũng như lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Tôi thường ngâm ngợi câu thơ nổi tiếng của Đặng Dung “Nợ nước chưa xong đầu đã bạc / Mấy độ mài gươm bóng nguyệt tà” mà nay mới biết được xuất xứ của bài thơ “Cảm hoài” nổi tiếng nhờ đọc cuốn sách này.
Cũng có người bảo tôi rằng, bây giờ muốn tìm kiếm thông tin gì thì gõ vào Google là có hết. Tất nhiên, thời buổi hiện đại, không chỉ tìm trong sách mà ta có thể tìm kiếm qua các trang mạng. Nhưng, không hiểu sao tôi vẫn cứ cho rằng những cuốn sách (tất nhiên là sách nghiêm chỉnh) vẫn là nơi đáng tin cậy nhất.
Khi tôi làm cuốn “Những câu thơ hay Đông-Tây-Kim-Cổ” (Nhà xuất bản Giáo Dục ấn hành năm 2013), tôi mới hiểu hết cái cực nhọc của những người làm sách nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn mà trong những cuốn sách đó có nhiều tác giả, ở nhiều nơi và nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau. Cho nên tôi rất kính nể những nhà báo, nhà văn, nhà thơ dày công tìm tòi biên soạn những cuốn sách như vậy, như nhà báo Lê Văn Ba đã làm.
Nói đến nhà báo Lê Văn Ba, tôi lại nhớ về một thời làm báo với nhiều kỷ niệm khó quên.
Sau khi tốt nghiệp đại học tổng hợp văn, tôi gia nhập quân đội và là sỹ quan điều khiển tên lửa trong chiến tranh chống Mỹ. Năm 1975, sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, tôi chuyển về làm phóng viên ở báo Tiền Phong. Hôm đầu tiên đến nhận việc, lãnh đạo báo phân công tôi về làm ở ban Công nghiệp. “Lên gặp nhà báo Lê Văn Ba nhé, ông ấy là trưởng ban của cậu” người phụ trách tổ chức của báo Tiền Phong lúc đó bảo tôi.
Tôi lên tầng ba để ra mắt người trưởng ban mà tôi chưa hề biết mặt. Nhưng hôm ấy không gặp được ông. Mọi người bảo vợ ông sinh con trai, ông ấy đang ở nhà.
Sau này tôi mới biết, con trai ông, cháu Trần Toàn Thắng sinh đúng ngày tôi về nhận việc ở báo Tiền Phong. Hôm sau gặp tôi, ông bảo “Nhân dịp đại thắng mùa xuân này, mình đặt tên cháu là Trần Toàn Thắng đấy”.
Những ngày làm phóng viên ở ban Công nghiệp báo Tiền Phong tôi được nhà báo Lê Văn Ba tận tình giúp đỡ. Ông là người cẩn thận, chịu khó và rất nghiêm khắc với phóng viên. Bài viết của chúng tôi ông đọc rất kỹ, sửa từng câu, từng chữ, mỗi lần tôi được cử đi viết bài ông dặn xuống cơ sở sản xuất phải gặp ai, hỏi han điều gì, về nhà phải báo cáo cụ thể trước khi viết.
Có thể là do tuổi trẻ, do là người học văn và say làm thơ nên tôi chỉ thích viết những gì mà tôi cảm thấy xúc động, cảm thấy mới, thấy lạ… Và điều đó có vẻ không phù hợp lắm với không khí báo chí thời bấy giờ, cuối những năm bảy mươi của thế kỷ trước nên nhiều bài viết của tôi bị cắt bỏ rất nhiều.
Tuy tôi nhận thấy nhà báo Lê Văn Ba là người có quan điểm chính thống, có lẽ trong thâm tâm ông không thích lắm những người hơi ngang như tôi, nhưng tôi thấy ông rất tận tình, quan tâm chỉ bảo từng li từng tý, tôi cũng rất thích đến chơi với gia đình ông, vợ ông, các con ông đều sống chân tình... Đó là những ngày gian khổ, thiếu thốn đủ điều, nhưng tôi nhận thấy những người làm việc ở báo Tiền Phong thời đó từ cán bộ, phóng viên đến nhân viên sống với nhau rất có tình người. Từ mớ rau muống đến bàn chải đánh răng được phân phối đều chia đều, mọi người đều vui vẻ, không thấy ai tị nạnh gì nhiều. Đúng là một thời đói ăn, thiếu mặc nhưng giầu tình người, giầu tình anh em đồng chí!
Ở báo Tiền Phong nhiều nhà báo đồng thời cũng là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Bùi Ngọc Tấn, Lê Minh Khuê, Sơn Tùng, Phan Cung Việt... và nhà báo Lê Văn Ba (tên thật là Trần Khắc Cần) cũng viết văn.
Ông có truyện “Người đàn bà quỳ” ký tên Trần Khắc được nhiều người đọc. Cũng có người nói truyện này thực ra là một phóng sự. Gần đây, ông đã được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Khi tôi lên thay ông phụ trách ban Công nghiệp rồi ban Kinh tế của báo Tiền Phong, Lê Văn Ba chuyển sang làm ở báo Đại Đoàn Kết. Sau khi nghỉ hưu, ông về làm cho báo Người Cao Tuổi. Cả cuộc đời làm báo, nhà báo Lê Văn Ba đã có được nhiều tư liệu quý, nhiều vốn sống phong phú, nhiều nghị lực vượt khó để khi với tư cách là một nhà văn, ông đã làm được những cuốn sách công phu, đáng nể như cuốn “Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược” mà tôi vừa nói đến.
Nhà vườn Sóc Sơn 2015