Cho dù đã nhiều lần khẳng định chúng ta không thể vào WTO bằng mọi giá, nhưng để đạt được mục tiêu tại hội nghị Hồng Công, năm 2005 phải là một năm có sự chuyển biến rõ rệt trong việc chuẩn bị bước vào cuộc chơi mới.
Đàm phán 10 năm, dài hay ngắn?
Tháng 1/1995, Việt Nam chính thức nộp đơn gia nhập WTO và đến nay đã tròn 10 năm. Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển thừa nhận đây “quả là quãng đường dài” nhưng vẫn còn là ngắn nếu so với Trung Quốc (14 năm). “Với ta, giai đoạn đầu đàm phán cũng tương tự như Trung Quốc vì tư tưởng bảo hộ tác động đến quản lý các ngành, các doanh nghiệp và phần nào là cả Chính phủ” - Ông Tuyển nói.
Sau 6 vòng đàm phán minh bạch hoá chính sách kéo dài từ 1997, vòng đàm phán thứ 7 kết thúc cuối năm ngoái được đánh giá là “có bước đột phá” với việc Ban công tác gia nhập WTO hình thành bản báo cáo “Một số nội dung chủ yếu của dự thảo báo cáo gia nhập của Việt Nam”.
Theo ông Tuyển, từ cuối 2002, sau khi nhìn nhận lại tiến trình đàm phán thấy dài quá mức cần thiết nên “đã chỉ đạo quyết liệt và tiến độ đã được đẩy nhanh hơn”. Từ phiên đàm phán thứ 09 vừa kết thúc, chúng ta đã chuyển hẳn sang giai đoạn mới vì lần đầu tiên dự thảo báo cáo gia nhập WTO của Việt Nam đã được Ban công tác đưa ra thảo luận và sẽ bàn tiếp ở các phiên sau.
Để gia nhập, trước mắt phải tiến hành từ 2 - 3 phiên đàm phán đa phương nữa, trong đó thời gian 6 tháng đầu năm 2005 sẽ có một “khối lượng công việc vô cùng lớn” (dự kiến đàm phán phiên 10 sẽ diễn ra cuối tháng 3 và phiên 11 vào tháng 5 hoặc tháng 6 để những phiên cuối cùng sau đó, nếu có, thì cũng chỉ là chỉnh sửa câu chữ mang nặng tính kỹ thuật).
Cùng với quá trình đàm phán đa phương thể hiện cam kết tuân thủ các luật chơi của WTO là đàm phán song phương giữa Việt Nam với các đối tác thương mại có yêu cầu đàm phán để mở cửa thị trường.
Đã có 27 đối tác thương mại yêu cầu được đàm phán với Việt Nam, trong đó có cả những Quốc gia, nói như Phó Thủ tướng Vũ Khoan, “có rất ít quan hệ thương mại với Việt Nam cũng yêu cầu đàm phán”. Tính đến hết tháng 12 năm nay, đã có 6 thoả thuận song phương được ký giữa Việt Nam với các đối tác bao gồm Cuba, Chilê, EU, Achentina, Brazil và Singapore.
Ký kết hiệp định được với EU hồi tháng 10 vừa qua, theo Bộ trưởng Trương Đình Tuyển, có vai trò quan trọng để Việt Nam đẩy mạnh đàm phán song phương với các đối tác khác có quan hệ thương mại lớn với mình như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Australia. Khi đàm phán với các nước này, Việt Nam phải đàm phán mở cửa thị trường ở 11 lĩnh vực dịch vụ với khoảng 155 chuyên ngành.
Thiệt thòi của Việt Nam cũng như các nước gia nhập WTO sau 1995 ở chỗ đã bị các nước đã là thành viên áp đặt những điều kiện cao hơn, nói theo ngôn ngữ quốc tế gọi là điều kiện “WTO cộng”. Ví dụ hiện Mỹ và EU hàng năm giành ngân sách rất lớn để trợ cấp nông sản cho nông dân tại hai khu vực này, trong khi họ lại yêu cầu các nước đang phát triển như Việt Nam khi gia nhập WTO phải từ bỏ khoản trợ cấp đó.
Bắt đầu từ nội lực
Bộ trưởng Trương Đình Tuyển nói: Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy đã có một số dự báo ban đầu không sáng sủa lắm khi nước này gia nhập WTO, nhưng thực tế 3 năm qua diễn ra theo hướng có lợi nhiều cho Trung Quốc và hy vọng mọi chuyện cũng diễn ra tương tự với Việt Nam.
Để việc gia nhập WTO mang lại nhiều lợi ích hơn cho Việt Nam, theo trưởng đoàn đàm phán Lương Văn Tự, từ lâu Chính phủ đã có nghị quyết trong đó giao trách nhiệm cụ thể cho từng bộ, ngành phải chuẩn bị như thế nào khi bước vào cuộc chơi mới. Tuy nhiên, không phải bộ nào, địa phương nào và doanh nghiệp nào cũng nhận thức đầy đủ được sự cạnh tranh đang cận kề, nếu không có sự chuẩn bị tốt sẽ thua thiệt, thậm chí phá sản.
Vì vậy, điều các doanh nghiệp cần làm hiện nay là phải tập hợp được những tiến triển trong quá trình đàm phán, nắm rõ lộ trình mở cửa các ngành kinh tế và có kế hoạch kinh doanh khả thi khi thị trường mở cửa hoàn toàn.
|
Sơ bộ những cam kết đa phương của Việt Nam: - Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ tuân thủ toàn bộ nguyên tắc tối huệ Quốc (MFN) của WTO, không phân biệt đối xử giữa trong và ngoài nước - Nguyên tắc đãi ngộ Quốc gia: không phân biệt đối xử giữa bên trong và bên ngoài: không đánh thuế khác biệt giữa hàng trong nước và nước ngoài (ví dụ đánh thuế vào ôtô trong nước cũng phải giống với ngoài nước, đánh thuế vào thuốc lá sử dụng nguyên liệu nội cũng giống như nước ngoài...). Trong hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, chúng ta cũng đã cam kết 3 năm sau khi hiệp định có hiệu lực (cuối 2004) sẽ xoá bỏ toàn bộ sự phân biệt đối xử giữa hàng trong nước và ngoài nước. - Thực hiện các Hiệp định của WTO: Hiệp định TRIM các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại, Hiệp định TRIP về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; Hiệp định xác định trị giá tính thuế hải quan; Hiệp định SPS về vệ sinh an toàn thực phẩm; Hiệp định rào cản kỹ thuật trong thương mại; Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu... Trong số này, có nhiều Hiệp định chúng ta cam kết thực hiện ngay khi gia nhập. - Trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp: Trước đây đề nghị lộ trình vài năm nhưng từ phiên 07 chúng ta đã cam kết sẽ giữ trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp ở mức hiện hành và sẽ cắt giảm nó theo đúng quy định của WTO. Đến phiên 08, ta cam kết bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu ngay cho cà phê từ khi gia nhập, các loại trợ cấp khác sẽ bãi bỏ trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập. Trợ cấp đối với công nghiệp, Việt Nam cũng khẳng định sẽ bãi bỏ các quy định về tỷ lệ nội địa hoá từ thời điểm gia nhập. |