Số người bị chết là 130, bị thương 140. Trường Y, Trường sư phạm 10+2 chết nhiều nhất. Hàng chục cô gái đang ở độ 18, đôi mươi….
Họ gần như bị quên lãng. Tôi đã trực tiếp viết lên báo Quân đội vấn đề này…
Tôi dường như bị ám ảnh chất giọng đanh lẫn buồn thảm. Và thảng hoặc cái vằn mắt của người anh hùng?
Nhân chứng 1
Tôi đã gặp nhà văn Kiều Vượng (Giải thưởng Văn học Mê Kông năm 2012). Nhà văn thời đó những năm 70, thế kỷ trước đang làm việc ở ngành giao thông vận tải (GTVT) Thanh Hóa
…Thường vụ Tỉnh ủy họp suốt đêm. Nhiều việc thời chiến cấp bách trong đó có đoạn đê xung yếu từ phía nam cầu Hàm Rồng. Trận lũ tiểu mãn sắp dâng nước sông Mã lên báo động 3. Mà ở mực nước ấy, chỉ cần một quả bom loại nhỏ ném trúng thì cả thị xã Thanh Hóa chìm trong biển nước!
Tôi cũng được biết thêm, Tỉnh ủy quyết định huy động lực lượng tối đa, thành lập Ban chỉ huy đắp đê có ông Thắng, Giám đốc Ty Thủy lợi Thanh Hóa là chỉ huy. Ông Hoàng Văn Hiều, Chủ tịch UBND tỉnh kiêm Chủ nhiệm phòng không nhân dân; các đồng chí tỉnh đội phó, Phó giám đốc công an tỉnh đều tham gia ban chỉ đạo.
Những lao động giỏi, có sức khỏe 20 xã của huyện Đông Sơn, mỗi xã một trung đội, tổng cộng 800 người. Lực lượng dân công của thị xã Thanh Hóa huy động 300 người. Giáo viên của các trường 1.000 người. Tổng quân số hơn 2.000 người.
Phương châm Tỉnh ủy đề ra là bảo đảm an toàn cho người là quan trọng nhất, nên Ban chỉ huy công trường phân công cứ 5 người làm 1 hầm chữ A chạy dọc chân đê.
Dân công thị xã Thanh Hóa đắp 300m đê, dân công huyện Đông Sơn đắp 600m, giáo viên các trường đắp 100m. Lúc đầu, thời gian làm việc được quy định từ 19 giờ ngày hôm trước đến 6 giờ sáng ngày hôm sau. Như thế sẽ bảo đảm được việc phòng không, nhưng lại cản trở việc các đoàn xe vận chuyển ra tiền tuyến, nên Ban chỉ huy quyết định chuyển sang làm ban ngày, từ 5 giờ đến 8 giờ sáng. Riêng ngày 14/6/1972, do yêu cầu của dân công muốn được nghỉ Tết Đoan Ngọ, Ban chỉ huy đồng ý cho anh em làm thêm một giờ nữa để hôm sau nghỉ, mỗi người được bồi dưỡng thêm 3 lạng thịt.
Tấm bia dựng vội tưởng niệm các cô gái trong trận thảm sát ngày 14-6-1972
Trên đoạn đê chưa đầy một cây số mà có hơn 2 ngàn người làm trong lúc máy bay do thám của Mỹ liên tục rà soát và các loại tiêm kích sẵn sàng ập đến bất kỳ lúc nào thì thật bất an, khủng khiếp. May mà hơn 1.000 người dân Đông Sơn và một số lực lượng đắp đê khác đã rút lui trước 8 giờ sáng. Khi xảy ra cuộc oanh tạc chỉ còn lại lực lượng học sinh Y, Sư phạm.
Vẫn tiếp câu chuyện của nhà văn Kiều Vượng. “Khi đó tôi đang trực ở Ban điều hòa vận tải thì nhận lệnh gấp về phía đê bị oanh tạc. Nhảy lên một chiếc xe ben, khi tôi và người lái xe đến thì cảnh tượng kinh hãi diễn ra khiến tôi lạnh toát người. Từng qua nhiều trận bom Mỹ ở bến phà Ghép hay dọc kênh đào nhà Lê ở giáp tuyến Nghệ An, Thanh Hóa, nhưng trận bom Mỹ ập xuống đầu những cô gái 18 mơn mởn sức xuân không một thứ vũ khí trong tay khiến tôi rùng mình”.
Dưới cái nóng hầm hập của sáng mùa hè, nhiều người chết, lẫn bị thương nằm giữa vũng bùn và máu trộn lẫn đặc sệt. Những thân người bị xé toạc ra ở bụng, ở ngực, vẫn thở thoi thóp. Những thân hình người chết, trần truồng, người bị thương hoặc sống cũng trần. Bom hơi! Tôi láng máng nghĩ, chỉ có thứ bom tàn ác ấy mới có sức thổi bay mọi thứ trên thân thể và cả cơ thể con người. Tôi trực tiếp nhìn thấy ông chủ tịch tỉnh cũng có mặt ứng cứu. Ông đang khó nhọc bê cánh tay trần của một cô gái nào đó và nhắc mọi người đem đến nơi tập kết thi thể.
Chiếc xe ben của tôi chở hơn mười thi thể phóng về rừng thông. Ở đó các tử thi được tập kết để tắm rửa thay quần áo, cho các thân nhân đến nhận dạng nhận người.
Khi đang lau rửa mặt mũi cho những người xấu số thì bất đồ tôi nhận thấy đôi môi của một tử thi mấp máy… Tôi hoảng hốt la toáng lên và bế xốc cô gái có một mái tóc thật dài ấy lên xe ben rồi giục lái xe phóng về bệnh viện huyện. Nhận ra cô ấy tóc dài vì khi bê lên xe, đuôi tóc còn lệt xệt quét lên chân tôi.
Bệnh viện cách đó hơn cây số mà tôi tưởng như hàng buổi đường. Đến nơi, cô gái như đang hấp hối. Máu đen từ tai, miệng, mũi trào ra. Các thầy thuốc tích cực cấp cứu cho cô. Tôi lại phải chạy đi để chở chuyến khác. Tôi chắc cô ấy không qua được.
Người ta chết được cũng không dễ? Kỳ diệu thay sự sống và sức sống tuổi 18. Cô gái ấy sau đó đã tỉnh lại và được đưa đi điều trị ở tuyến trên. Rồi cô học nốt trường Y về công tác ở bệnh viện tỉnh Thanh Hóa. Cô có một gia đình êm ấm và hai con kháu khỉnh. Nay cô ấy đã về hưu. Cô y sĩ ấy tên là Thế!
Nhưng trong số 68 cô gái của trường Y và Sư phạm đã chết hôm ấy, không có ai may mắn như Thế cả.
Đến bây giờ gần nửa thế kỷ đã trôi qua, từ trong sâu thẳm, tôi vẫn băn khoăn rằng cái thảm họa kinh hoàng ấy liệu có bi đát như thế không nếu như những người lãnh đạo trực tiếp và gián tiếp không chiều theo cái việc làm rốn giờ để được nghỉ Tết Đoan Ngọ?
Nhân chứng 2
Theo lời mách của anh hùng Lê Mã Lương, tôi tìm đến quán bán giải khát ngay dưới chân cầu Hàm Rồng.
Anh Lê Huy Bé chỉ địa điểm cuộc thảm sát
Chủ quán Lê Huy Bé, nguyên cảnh sát giao thông kể.
Thời điểm đó tôi được Bộ Công an điều về đảm bảo giao thông tại trọng điểm cầu phà Hàm Rồng.
Khoảng 9 giờ kém 30 phút ngày 14/6/1972, hơn 2.000 người đang khẩn trương đắp đoạn đê nam cầu Hàm Rồng. Lúc đó tôi đang ở đoạn đê đầu làng Nam Ngạn và trao đổi công việc với đồng chí Lê Chí Phan phụ trách công trường mới biết mọi người tiếp tục làm rốn thêm thời gian là để ngày mai được nghỉ Tết Đoan Ngọ. Ngay sau đó, vừa dứt hồi kẻng báo động thì nhiều tốp máy bay đã xộc tới điên cuồng nhào xuống hiện trường đắp đê. Dồn dập bom phá bom bi, bom hơi. Lực lượng phòng không bảo vệ cầu nổ súng đánh trả quyết liệt mới xua bầy cướp lảng xa nhưng chúng đã kịp gây tội ác. Tiếng kêu la, than khóc, ran tứ phía.
Trong khi bom đạn chưa ngớt tôi cùng các anh Nguyễn Công Trí, Nguyễn Văn Nam, Nguyễn Văn Nhượng là Công an giao thông có mặt đầu tiên tại hiện trường. Chúng tôi ngay lập tức lao xuống hố bom để ôm, bế, vác những người bị thương, bị chết lên bờ và điều xe ô tô chở người đi cấp cứu. Trên tay chúng tôi là thi thể của hàng chục sinh viên trường Sư phạm, trường Y tuổi 18, 20. Người bị thương, người đã chết thân thể không vẹn nguyên. Hàng chục năm qua hình ảnh ấy còn ám ảnh mãi…
…Chị Hòa, vợ anh Bé, sinh năm 1949, quê ở tiểu khu Hàm Rồng khi đó là giáo viên Trường Hàm Rồng. Cô giáo Hòa sáng ấy, như nhiều giáo viên khác của trường cũng được huy động đi đắp đê. Máy bay ào tới, cô giáo không kịp xuống hầm và ngay lập tức đất trời chao đảo, không gian dậy tiếng bom. Rồi, cô không biết gì nữa...
May cho cô giáo Hòa, chỉ bị sức ép. Cô bị văng đi mấy chục mét. Máu tai, mũi, mồm tuôn xối. Thầy hiệu trưởng của cô, của trường Hàm Rồng đã chết trong trận bom ấy.
Vợ chồng ông Lê Huy Bé và Dương Thị Hòa
Có một lúc câu chuyện của chúng tôi tạm lắng. Không gian bên quán sát Quốc lộ 1 vốn ồn ã như bị ngưng lại bởi những hồi ức dữ dằn của quá khứ được gợi bất chợt ập về… Chuyện sau đó yên hàn, anh Bé chị Hòa đã biết nhau, đã tìm đến nhau rồi nên vợ nên chồng… Tôi cứ lẩn thẩn ngó quanh cái quán giải khát của anh chị những năm hưu mưu sinh ngay bên một địa danh chết chóc máu lửa thời son trẻ. Nói khép lại quá khứ của cả một dân tộc là một cách nói, nếu như không có những con người đóng và khép cụ thể này?
Tôi theo anh Bé ra quãng đê máu lửa ngày ấy chỉ cách nhà một đoạn.
Quãng đê mong manh hơn 40 năm trước từng rình rập đe dọa những lũ và bom đạn thù, nay là con đường 2 chiều vững chãi bởi các kiểu bồi trúc gia cố hiện đại.
Cũng xin người anh hùng Lê Mã Lương tạm yên lòng! Tuy muộn, nhưng một tỉnh như xứ Thanh đang bộn bề những dự án thoát nghèo nhưng mới đây đã cố và kịp có một nghĩa cử về sự kiện bi thương 14/6/1972 ấy.
Không phải một nhà bia mà là tấm đá được vạt một khoảng và ngay ngắn trên đó là những dòng nhắc nhở…
Bia không dựng bên kia đường (mặt đê) hiện trường của buổi sáng bi thương mà chếch sát sông như một vế đối với núi Ngọc Hàm Rồng.
Cũng lạ, gần bia là một gốc bồ đề (chắc trồng từ trước?) đã chuẩn bị khép tán. Mai này, có thể từ tấm bia để làm chuẩn làm móng, có thể lắm một nhà bia, hoặc một tượng đài?
Ấy là tôi đang mường tượng ra thôi, như ao ước lẫn tưởng tượng ra một phép mầu của cơ chế là toàn bộ 69 cô giáo, sinh viên tuổi mười tám đôi mươi chết trong trận 14/6 của mùa hè đỏ lửa ấy, gia đình của họ được hưởng một chính sách một đãi ngộ nào đấy?
Bởi, như anh hùng Lê Mã Lương thở dài, khi ông cố công hỏi thì được trả lời rằng, là các cô gái ấy khi đó chưa được biên chế nên không có điều khoản và mục nào để họ được hưởng chính sách cả!
69 giáo sinh mơn mởn thanh xuân ấy khi lên mặt đê làm nhiệm vụ công dân với nhà trường với địa phương Thanh Hóa và với đất nước thời binh lửa, có lẽ chả ai nghĩ mình nên vào biên chế nhà nước để… ngộ nhỡ hy sinh?
Và ứng xử thế nào đây với những lá đơn nhiều năm qua gửi đến các cơ quan hữu trách có những dòng đại loại của thân nhân họ như thế này
Kính mong các cấp soi xét có chế độ chính sách gì để vong linh các cháu đỡ tủi…
Các cháu ngày ấy họ đã tưới máu đào cho cuộc sống hôm nay.
Người mình ngày trước, thường có nghĩa cử đặt tên thụy hay mỹ tự sau khi chết với những tấm gương vì nước vì dân mà bỏ mình. Với các cô giáo sinh sư phạm và trường Y ấy, cụm mỹ tự Anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ có lẽ cũng xứng?