Mở rộng, hiện đại hóa sản xuất
Ðể bảo đảm an toàn sản xuất và nâng cao sản lượng khai thác than, Công ty than Thống Nhất đã đầu tư, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, từng bước đưa công nghệ mới vào khai thác than hầm lò. Các dự án, hạng mục được Công ty đầu tư chủ yếu phục vụ mở rộng và hiện đại hóa sản xuất như dự án đầu tư khai thác hầm lò xuống sâu dưới mức âm 35 m khu Lộ Trí; cải tạo, nâng cấp đường điện 6 kV trên không; cải tạo, mở rộng mặt bằng máng ga khu Lộ Trí; xây dựng trạm xử lý nước thải sinh hoạt và nhiều thiết bị phục vụ hiện đại hóa cho sản xuất... Theo Giám đốc Công ty Phạm Ðức Khiêm, trong số gần 100 tỷ đồng đầu tư từ đầu năm đến nay, chủ yếu tập trung vào phần xây lắp (67,3 tỷ đồng), thiết bị (26 tỷ đồng),... Riêng quý III vừa qua, Công ty đầu tư mở rộng sản xuất gần 26 tỷ đồng, trong đó 24 tỷ đồng cho xây lắp, còn lại là đầu tư về thiết bị. Công ty đặt mục tiêu nâng cao chất lượng, năng suất qua việc đổi mới công nghệ, tiết giảm chi phí ngay từ khi triển khai kế hoạch sản xuất. Ðiển hình là phương án chuyển đổi hình thức chống giữ tại năm lò chợ, chuyển từ cột thủy lực đơn sang giá khung di động, giá thủy lực di động liên kết bằng xích. Hiện nay, Công ty áp dụng toàn bộ lò chợ chống bằng giá khung, giá xích ZH nhằm khai thác an toàn, ổn định và tăng năng suất,... Ðồng thời, tiếp tục ứng dụng công nghệ chống lò bằng vì neo tại những đường lò có điều kiện cho phép, dự kiến thực hiện năm nay đạt 411 m.
Anh Hoàng Phó Vấn, công nhân Phân xưởng Khai thác 6 cho biết, qua việc đầu tư đổi mới thiết bị, điều kiện khai thác của công nhân trong Công ty được cải thiện, đỡ vất vả và an toàn hơn trước nhiều. Việc đưa giá thủy lực vào khai thác giúp quá trình khai thác ổn định, tránh được áp lực cao ở gương lò và nóc lò chợ. Loại giá đỡ thủy lực ZH có nhiều ưu điểm, sử dụng cần điều khiển, công nhân có thể rút cột và chốt hãm không phải dùng tay như trước, nâng cao hệ số an toàn và tăng năng suất lao động gấp ba lần so với sử dụng giá đỡ hầm lò đơn truyền thống. Trước đây, mỗi lò chợ bình quân chỉ khai thác được từ 130 đến 160 nghìn tấn than/năm, khi đưa hệ thống giá thủy lực vào khai thác, năng suất mỗi lò chợ đã đạt 243 nghìn tấn/năm. Thu nhập hằng tháng của thợ lò cũng tăng lên, bình quân đạt 11 triệu đồng/người/tháng; cá biệt có thợ lò đạt thu nhập tới 26 triệu đồng/người. Theo lãnh đạo Công ty than Thống Nhất, những giá đỡ thủy lực di động sau một thời gian sử dụng sẽ hư hỏng phải bỏ đi, nếu đầu tư mua mới sẽ rất tốn kém. Ðể tiết kiệm chi phí sản xuất, Công ty khuyến khích xưởng cơ điện, bộ phận thủy lực nghiên cứu và sửa chữa, tái sử dụng các loại giá này, nhờ đó tiết kiệm hàng tỷ đồng.
Từ nay đến cuối năm, Công ty than Thống Nhất phấn đấu hoàn thành các công trình trọng điểm như dự án khai thác hầm lò xuống sâu mức âm 35 m; đào lò ghép diện các lò chợ mức âm 140 m; đẩy nhanh tiến độ đầu tư hệ thống vận chuyển người và vật tư, thiết bị trong lò đang trong quá trình hoàn chỉnh.
Sản xuất sạch, thân thiện môi trường
Khai thác than là ngành sản xuất đặc thù luôn tiềm ẩn nguy cơ tác động xấu tới môi trường, gây ảnh hưởng đến sản xuất của các đơn vị. Ðây là thách thức không nhỏ để bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường một cách bền vững. Những năm qua, cùng với việc đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, công tác bảo vệ môi trường ngày càng được Công ty than Thống Nhất quan tâm thực hiện bằng việc triển khai đồng bộ, tổng thể nhiều giải pháp, hạng mục nhằm mục tiêu sản xuất ngày càng sạch hơn.
Tháng 4-2015, Công ty đã hoàn thành dự án "Trạm xử lý nước thải mỏ Núi Nhện", tổng mức đầu tư gần 60 tỷ đồng, có công suất 1.200 m3/giờ. Hiện nay, toàn bộ nguồn nước thải mỏ hầm lò từ quá trình sản xuất của Công ty đã được xử lý tại trạm Núi Nhện và hệ thống xử lý nước thải hầm lò tại phường Cẩm Sơn (TP Cẩm Phả). Tại đây, toàn bộ nguồn nước thải từ lò giếng chính của Công ty được thu gom, xử lý thông qua các hệ thống lắng, lọc để làm trong nước và loại bỏ các kim loại nặng, bảo đảm nước thải đạt tiêu chuẩn loại B trước khi xả ra môi trường. Tuy nhiên, nước thải hầm lò của Công ty có hàm lượng sắt cao khiến việc xử lý gặp nhiều khó khăn. Xí nghiệp xử lý nước Cẩm Phả trực tiếp quản lý trạm Núi Nhện đã tập trung nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ, bảo đảm toàn bộ nguồn nước thải mỏ của Than Thống Nhất đạt tiêu chuẩn về môi trường. Xí nghiệp xây thêm một số bể chứa, tăng cường ngăn lắng, hố lắng nước thải mỏ, cải tiến quy trình, nhất là những nơi nước thải có hàm lượng kim loại nặng cao. Hằng ngày, tại mỗi trạm, công nhân vận hành thường xuyên kiểm tra bằng máy đo pH và bằng cảm quan về chất lượng nước thải. Ðồng thời, ký hợp đồng với Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Ninh kiểm định mẫu nước định kỳ hằng quý, chủ động lấy mẫu tại các trạm xử lý nước thải mỏ (gồm cả mẫu nước trước, sau xử lý và mẫu bùn trước khi vận chuyển đổ thải) để giám sát chất lượng nước thải sau xử lý.
Thời gian tới, Công ty than Thống Nhất tiếp tục đầu tư sâu cho công tác sản xuất sạch, bảo vệ môi trường khu vực sản xuất như thi công Trạm xử lý nước thải sinh hoạt tại khu Lộ Trí, Trạm xử lý nước thải khu nhà ở công nhân Cẩm Tây, thi công đường kè, rãnh thoát nước khu Núi Nhện. Cùng với đó, giám sát chỉ đạo công tác tưới nước chống bụi các đường vận chuyển than, đất đá trong và ngoài khai trường, phun nước chống bụi; tiếp tục xây dựng khuôn viên tạo cảnh quan môi trường các mặt bằng mỏ xanh - sạch - đẹp, bê-tông hóa các tuyến đường ra vào mỏ,... Những công trình đạt hiệu quả nêu trên chính là tiền đề để Công ty than Thống Nhất tiếp tục thực hiện các dự án bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn môi trường, từng bước hướng đến mục tiêu trở thành ngành sản xuất "sạch", phát triển hài hòa, thân thiện với môi trường và cộng đồng mà Tập đoàn TKV đã đề ra.