Bức tường vẫn trắng sang nhau...

Bức tường vẫn trắng sang nhau...
TP - Trong một bán kính cỏn con, mà có đến 3 nhà thơ, nhà văn. Những người này từng có tác phẩm được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam - Tổ chức văn chương chuyên nghiệp và uy tín lớn nhất nước.
Bức tường vẫn trắng sang nhau... ảnh 1
Nhà thơ Y Phương

So với nhiều tỉnh thành dưới xuôi, thì việc đó chẳng có gì đáng kể. Nhưng chuyện này lại nảy ra tại một vùng sơn cước ở phía bắc của Tổ quốc. Kinh tế nơi đây chưa phát triển, văn hóa giáo dục đang dần từng bước ổn định. Thì đó là chuyện không hề nhỏ.

Cả ba nhà văn Cao Duy Sơn, Từ Ngàn Phố, Y Phương cùng cất tiếng khóc chào đời ở quanh quanh chân núi Phja Phủ. Họ uống cùng một nguồn nước. Ăn cùng một thứ gạo nương. Nhai cùng một thứ ổi. Chơi cùng trăm bố núi, chín mươi chín mẹ đồi.

Tôi và Nguyễn Tuấn học cùng một ngôi trường. Đó là trường cấp một, cấp hai, cấp ba thị trấn Trùng Khánh. Thậm chí cùng mê một người con gái xinh đẹp nhất nhì phố huyện. Nhưng chỉ mình Nguyễn Tuấn làm ổ được trong trái tim cô ta.

Nguyễn Tuấn, sau này là nhà thơ Từ Ngàn Phố. Tại sao lấy bút danh là Từ Ngàn Phố, tôi chưa một lần hỏi bạn. Hãy để bạn mình có một góc bí mật. Không nên hiểu sâu quá về phần chìm của tảng băng trôi.

Từ Ngàn Phố. Một cái tên nghe như có khởi nguồn từ miền Trung xứ Nghệ. Ở đó có tên đất Ngàn Phố, Ngàn Sâu. Nhiều người đã tưởng nhầm như vậy. Nhưng không phải. Tuấn thư sinh. Tuấn đẹp trai. Tuấn có chỏm tóc trắng trước trán. Tuấn người phố Háng Vài.

Cạnh nhà Tuấn cái giếng dùng chung cho cả thị trấn. Cái giếng nổi tiếng, bởi là nơi cung cấp nước sạch cho cả phố. Nó còn nổi tiếng hơn, khi có bà Lả buôn rượu lậu bị bắt. Bà đã khôn khéo, mau chóng đổ hết rượu xuống giếng nước phi tang. Xong xuôi, bà Lả tụt quần, lớn tiếng thách đố các nhà chức trách. Bắt đi. Bắt cái hi tao đây này.

Con phố Háng Vài nhỏ bé nằm trên trục đường chính, chạy từ Mục Mã qua Phủ Trùng đến Pò Peo, sang nước bạn Trung Quốc. Có điều, hồi ấy khá nhiều người xuất chúng. Con trai thì học giỏi, có tài. “Slíp lạo lục bao Quảng Nguyên, bấu tấng lạo kín diên Trùng Khánh”.

Nghĩa là: Mười anh trai tơ Quảng Nguyên không bằng một ông nghiện khật khừ Trùng Khánh. Đấy là câu chuyện hóm từ xa xưa. Còn con gái phố Háng Vài thì hiền thục và xinh đẹp.

Có người đồn rằng, đó là do họ được uống nguồn nước chắt ra từ thung lũng núi đá vôi. Nước ấy thẩm thấu qua những vùng đất có chất colin và axit docosahexaenoic, vì thế chỉ số IQ tăng cao đậm đặc. Dân nơi đây uống cái nước đó thường xuyên liên tục, từ đời này qua đời khác. Nên con người dễ trở thành nổi tiếng!

Không hẳn thế đâu. Việc dùng nước chỗ nào, chẳng liên quan gì tới sáng tạo cái đẹp. Mọi sự thông thái, trí tuệ, tài năng hay nhạy cảm nghệ thuật luôn luôn tồn tại ngoài ý muốn.

Chỉ có thể giải thích rằng vào những năm 60 của thế kỷ trước, đó là thời kỳ hoàng kim của một hệ thống giáo dục trong các nhà trường ở tỉnh Cao Bằng. Ngày ấy, thầy ra thầy. Lớp ra lớp. Trò ra trò. Ngôi trường mà chúng tôi học, đã từng nổi tiếng có nhiều học sinh giỏi, ngang ngửa với trường cấp hai Bắc Lý, trên toàn miền Bắc.

Đây là một niềm tự hào một thời của thầy và trò thị trấn Trùng Khánh. Học hành trở thành một niềm say mê. Thậm chí được cắp sách tới trường, thiêng liêng không khác gì bước tới một ngôi đền thờ thánh.

Dạo ấy, có non nửa thầy cô là người bản địa. Còn lại các thầy cô là người miền xuôi, tình nguyện lên miền núi dạy học. Ở họ có sự hiểu biết rộng, trình độ chuyên môn sâu và cao, cộng với lòng nhiệt tình hăng hái truyền giảng của tuổi trẻ.

Học trò ngày đó không chịu bất cứ một áp lực nào, ngoài ham muốn hiểu biết. Tự giác học. Tự giác làm bài. Nếu có ai quay cóp trong giờ kiểm tra, hoặc trong thi cử là một điều tự sỉ nhục. Người nào làm cái việc đó không dám ngang mặt nhìn người.

Nguyễn Tuấn liên tục mười năm liền là học trò xuất sắc. Toán năm. Văn năm. Chính trị, lịch sử năm…Đến Thể dục cũng năm. Năm là thang điểm tuyệt đối vào thời đó. Tôi nhìn Tuấn với con mắt từ xa, lòng thầm thán phục và ngưỡng mộ những người học giỏi.

Mặc dù tôi lớn tuổi hơn, nhưng chỉ học trên Tuấn có một lớp. Thú thực, cái sự học của tôi nói ra buồn cười lắm. Nó nhàn nhạt như nước lá dong chứ không được nét như Nguyễn Tuấn với nhiều người khác.

Chẳng hiểu thế nào, chúng tôi lại gặp nhau trên con đường binh nghiệp, và nổi cơn hứng tập tọng sáng tác thơ văn. Tuấn là lính Thiết giáp. Tôi Đặc công. Hai thằng được huấn luyện ở hai binh chủng khá đặc biệt. Tôi cởi trần, bôi bùn nâu, trét than đen lên khắp da thịt để ngụy trang.

Bức tường vẫn trắng sang nhau... ảnh 2
Nhà thơ Từ Ngàn Phố

Tuấn đội mũ như phi công, mặc quần áo rằn ri, đàng hoàng ngồi trong xe tăng T54 hành tiến. Tôi âm thầm “nghèo đói”. Tuấn rầm rầm rủng rỉnh. Tôi lấy đêm làm ngày, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng.

Còn Tuấn, đi tới đâu mặt trời cũng vén mây để nhìn. Còn các em xinh tươi là cứ reo lên “xe tăng anh qua miền quan họ”. Tuấn có số sướng! Đúng như vậy.

Đầu năm 76, tôi về Tết. Tuấn nhảy bổ ra đón đường. Tuấn lôi tôi vào nhà, pha nước, nói chuyện. Tôi hết sức ngỡ ngàng về thái độ thân tình, ấm áp, đầy bất ngờ này. Vì trước đây chúng tôi không hề quan hệ bè bạn. Dù sao Tuấn cũng “chíp hôi” hơn tôi đến năm,  sáu tuổi. Tôi chơi thân với Đỗ Vĩnh Thành, người anh rể của Tuấn. Hơn nữa, tôi là người trong làng. Còn Tuấn là dân phố xá. Người làng ít nhiều cũng còn tự ty mặc cảm.  

Bỗng anh chàng có túm tóc bạc khoe đã từng đọc thơ của tôi. Ngượng. Xấu hổ. Nhưng rất vui. Tôi mới làm thơ báo tường cỡ trung đội, đại đội. In đâu đó một hai bài. Không dám ho là mình có làm thơ. Nhưng, với Tuấn, tôi nhanh chóng trở thành người bạn thân thiết, có phần hơi suồng sã.

Khi ấy, Tuấn cũng đã có nhiều bài thơ in trên báo, mang bút danh Đặng Trùng Khánh. Đặng là họ của mẹ. Trùng Khánh là địa danh của huyện nhà. Tuấn đến với thi ca bắt đầu từ hai người mẹ. Một người có công sinh thành dưỡng dục. Còn một mẹ cho nguồn cảm hứng sáng tạo văn chương nghệ thuật bất tận.

Cái tên Đặng Trùng Khánh làm tôi muốn khóc.

Thế là những bài thơ mới, cũ của cả hai đứa lôi ra đọc phứa lên. Hòn đất mà cất nên nhà. Dù giông dù gió đi qua xá gì… Nhong nhong cưỡi ngựa bồ đề... giặc Ân lại về bà ơi. Nước mình nhọn núi tròn đồi… Hay… con thuyền ngủ thiếp trong tranh.

Hình như nó cũng tròng trành lao đi… Tôi không nhớ toàn bộ những bài thơ lục bát của Tuấn. Nhưng phải nói rằng, đến tận bây giờ tôi vẫn thấy lâng lâng da diết khi đọc nó. Thơ của Tuấn bao giờ cũng đằm thắm và da diết như thế.

Ngày ấy, tôi đang yêu. Tuấn cũng thế. Bức trường vẫn trắng sang nhau. Mặt trời mỗi ngày nghiêng vào nỗi nhớ… là tôi viết về mối tình đầu của Tuấn.

Ôi! Mối tình đầu. Những mối tình đầu. Nó như cơn mưa đắng. Mưa tuy đắng nhưng về sau có những sợi ngọt. Càng để lâu càng ngọt. Đúng vậy không nhỉ? Nghĩ miên man… Nhưng. Đợi đến sáng mai, những sợi ngọt đã chuyển thành sợi chua. Biết làm sao được. Đời là vậy. Ai ai cũng thế mà thôi.

Mối tình đầu như giọt rượu đầu. Nó cháy. Nhưng không bền. Tuy không bền nhưng thỉnh thoảng thấy mắc ở nơi cổ họng. Nuốt không xuống. Nhả không ra. Nó say hơi lâu như say thuốc phiện. 

Bây giờ, chúng tôi đều đã lớn. Người đang được làm ông ngoại. Người sắp được lên ông nội. Ai cũng ngấm đủ mùi mưa phùn sương muối, mà hồn vía thì xem ra vẫn chưa trưởng thành. Lòng vẫn thổn thức muốn làm bức tường màu trắng.

MỚI - NÓNG