ADC là hệ thống cáp quang ngầm dưới biển có chiều dài khoảng 9.800 km, kết nối 7 quốc gia và vùng lãnh thổ gồm Việt Nam, Trung Quốc, Hồng Kông, Thái Lan, Philippines, Singapore và Nhật Bản.
Tổng vốn đầu tư toàn tuyến ADC lên đến 290 triệu USD với sự hợp tác của 9 tập đoàn viễn thông hàng đầu gồm Viettel (Việt Nam), Softbank (Nhật Bản), Tata (Ấn Độ), Singtel (Singapore) China Telecommunications Corporation, China Telecom Global, China Unicom (Trung Quốc), National Telecom (Thái Lan), PLDT (Philippines). Viettel là đơn vị duy nhất tại Việt Nam tham gia đầu tư vào tuyến cáp này.
So với các tuyến cáp quang biển hiện có của Việt Nam, ADC có điểm đặc biệt là kết nối trực tiếp tới cả 3 trung tâm Internet của khu vực châu Á gồm Singapore, Hồng Kông và Nhật Bản.
![]() |
Việt Nam đưa vào vận hành tuyến cáp quang biển có dung lượng lớn nhất ADC. |
Dung lượng tối đa của ADC là 50Tbps, lớn nhất Việt Nam và bằng 125% lần tổng dung lượng kết nối quốc tế của cả 5 tuyến cáp quang biển đang hoạt động (IA, AAE-1, APG, AGG, SMW-3). ADC cũng có tốc độ cao hơn các hệ thống trước đây.
Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội (Viettel) sở hữu toàn bộ nhánh cáp biển kết nối Việt Nam và trạm cập bờ tại Quy Nhơn, cùng một phần của trục chính đi quốc tế. Viettel Networks là đơn vị vận hành khai thác.
Trước mắt, Viettel đưa vào sử dụng một phần dung lượng trên tuyến ADC để nâng cao năng lực kết nối quốc tế, đáp ứng các nhu cầu mới về dữ liệu và tăng trải nghiệm khách hàng khi sử dụng các dịch vụ Internet.
Với ADC, Viettel nâng mức dự phòng kết nối quốc tế, tăng số lượng tuyến cáp và hướng kết nối quốc tế, đảm bảo nhu cầu kết nối của Việt Nam khi có sự cố đứt cáp quang biển.
ADC không chỉ giúp đảm bảo an toàn mạng lưới, mà còn củng cố hạ tầng số đáp ứng các dịch vụ yêu cầu tốc độ cao và băng thông lớn như AI, 5G, Bigdata, AR/VR.
![]() |
Tuyến cáp quang mới sẽ góp phần đảm bảo an toàn mạng lưới, thúc đẩy 5G, AI. |
Hiện nay, Việt Nam có 5 tuyến cáp quang biển kết nối đi quốc tế gồm AAG (châu Á - Mỹ), APG (châu Á - Thái Bình Dương), SMW-3 (Đông Nam Á - Trung Đông - Tây Âu), IA (Liên Á) và AAE-1 (châu Á - châu Phi - châu Âu).
Trước đó, Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt “Chiến lược phát triển hệ thống cáp quang quốc tế của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035”.
Chiến lược nhằm mục tiêu xây dựng khả năng tự chủ trong việc thiết lập, triển khai, sửa chữa các tuyến cáp quang quốc tế, đảm bảo an toàn cho mạng lưới Internet Việt Nam, đáp ứng đầy đủ nhu cầu kết nối quốc tế cho phát triển kinh tế số, xã hội số, quốc phòng - an ninh.
Chiến lược đặt mục tiêu đến 2030 sẽ triển khai và đưa vào hoạt động tối thiểu thêm 10 tuyến cáp quang trên biển mới, nâng tổng số tuyến cáp quang trên biển của Việt Nam lên tối thiểu 15 tuyến với dung lượng tối thiểu 350 Tbps.
Cụ thể đến năm 2027 sẽ triển khai và đưa vào hoạt động thêm 4 tuyến cáp quang biển mới. Từ năm 2028 đến năm 2030 sẽ triển khai và đưa vào hoạt động thêm tối thiểu 6 tuyến cáp quang biển mới.
Chiến lược cũng đưa ra tầm nhìn đến 2035 sẽ xây dựng Hệ thống cáp quang quốc tế của Việt Nam nằm trong nhóm dẫn đầu của khu vực về cả số lượng, dung lượng và chất lượng, trở thành lợi thế thu hút đầu tư, xây dựng các trung tâm dữ liệu lớn, các nhà cung cấp dịch vụ điện toán đám mây lớn tới siêu lớn.