“Khởi đầu là các trao đổi của Malaysia với LHQ một bản đệ trình liên quan đến bản đồ giới hạn thềm lục địa mở rộng vượt quá 200 hải lý, và kể từ đó, một số thông điệp quan trọng đã được nhiều bên liên quan truyền đi”, Ahmad Almaududy Amri, người lấy bằng tiến sỹ từ Trung tâm Tài nguyên và An ninh Đại dương Quốc gia Úc (ANCORS), Đại học Wollongong, Úc viết trên Modern Diplomacy.
Theo điều 76 của Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), nếu một nước cho rằng thềm lục địa của mình vượt ra ngoài 200 hải lý, nước đó phải đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, cùng các dữ liệu kỹ thuật và khoa học, để ủy ban này xem xét.
Theo ông Amri, hầu hết các thông điệp là sự nhắc lại lập trường của các bên, nhưng chúng trở nên đúng lúc không chỉ bởi được đưa ra sau bản đệ trình của Malaysia, mà đặc biệt là chúng được đưa ra sau sự kiện Tòa Trọng tài năm 2016 về tranh chấp biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc. “Thật thú vị, các cuộc tranh luận truyền tải thông qua các cuộc họp báo hay tuyên bố (như trước đây), bây giờ chúng được chính thức đệ trình và được LHQ ghi nhận”, ông Amri viết.
Toà Trọng tài, được thành lập dựa trên UNCLOS 1982, đã đưa ra phán quyết rõ ràng liên quan đến yêu sách ‘đường 9 đoạn' của Trung Quốc, rằng một nhà nước không thể yêu cầu đòi chủ quyền các khu vực hàng hải vượt quá quy định của UNCLOS. Vì vậy, đường 9 đoạn là bất hợp pháp.
Đáp lại bước đi của Malaysia, Trung Quốc một lần nữa nhắc lại lập trường của mình, đặc biệt về cái gọi là 'quyền lịch sử' của họ ở biển Đông. Trung Quốc cũng coi phán quyết của Toà Trọng tài là bất công và bất hợp pháp. Hơn nữa, họ cho rằng Trung Quốc không chấp nhận hay tham gia Tòa Trọng tài và không chấp nhận cũng không công nhận phán quyết của nó.
Mặt khác, Indonesia lại một lần nữa bày tỏ sự phản đối. Không chỉ các lập luận được đưa ra dựa trên và phù hợp với các liên lạc trước đây với LHQ mà còn liên quan đến phán quyết của Toà Trọng tài.
Indonesia tái khẳng định họ không phải là một bên trong tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông. Họ cũng nhấn mạnh rằng quan điểm của Indonesia về quyền lợi hàng hải đối với các thực thể hàng hải ở biển Đông đã được xác nhận bởi phán quyết của tòa.
Ngoài ra, họ cho rằng cái gọi là đường 9 đoạn thiếu cơ sở pháp lý quốc tế, và đã được xác nhận bởi phán quyết của Toà Trọng tài. Ngoài Indonesia, một số quốc gia cũng đã chính thức phản đối về mặt pháp lý đối với các yêu sách hàng hải của Trung Quốc tại LHQ.
Trong phản bác của mình, Trung Quốc phản đối lập trường của Indonesia ngoại trừ việc họ chấp nhận thực tế là không có tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông giữa Indonesia và Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc tuyên bố rằng hai nước có các yêu sách chồng chéo về “quyền và lợi ích biển” ở một số phần của biển Đông.
“Có một lập luận thú vị được Trung Quốc đưa ra và đặc biệt nhắm tới Indonesia là một 'đề nghị' đàm phán về các “quyền và lợi ích biển chồng lấn”. Điều cần xem xét về mặt pháp lý, là có phải Trung Quốc viện dẫn Điều 283 của UNCLOS liên quan đến “nghĩa vụ phải trao đổi quan điểm”, tiến sỹ Amri đặt câu hỏi.
Ông diễn giải: Điều 283 (1) của UNCLOS quy định rõ ràng rằng "khi xảy ra tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng công ước này, các bên tranh chấp sẽ tiến hành nhanh chóng trao đổi quan điểm về việc giải quyết bằng đàm phán hoặc các biện pháp hòa bình khác". Nếu đây là ý định của Trung Quốc, thì cần phải xem xét thêm câu hỏi pháp lý khác, đặc biệt nếu quá trình đàm phán thất bại, liệu Trung Quốc có trực tiếp viện dẫn Điều 297 liên quan đến “Lựa chọn thủ tục” như một bước đi tiếp theo, như Tòa Trọng tài chẳng hạn?
“Tuy nhiên, Indonesia rõ ràng đã từ chối bất kỳ cuộc đàm phán song phương nào với Trung Quốc. Không có lý do pháp lý nào có thể giải thích tại sao Indonesia phải tiến hành đàm phán. Indonesia không có bất kỳ yêu sách hàng hải chồng chéo nào với Trung Quốc, do đó tổ chức đàm phán phân định hàng hải là vô căn cứ”, ông Amri nhận định.
Đề xuất đàm phán song phương không phải là mới và sẽ luôn bị Indonesia từ chối. Để xem xét trong tương lai, Trung Quốc cần giải thích rõ ràng cơ sở pháp lý của việc đàm phán đó là gì, dựa trên Điều 76 và Điều 83 về thềm lục địa, hay Điều 56 liên quan đến việc khai thác vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), hoặc bất kỳ cơ sở pháp lý nào khác?
Sự phản đối từ các quốc gia khác trước yêu sách hàng hải của Trung Quốc, đặc biệt liên quan đến phán quyết của Tòa Trọng tài, có thể đã làm suy yếu yêu sách của Trung Quốc ở biển Đông, bao gồm cả về mặt pháp lý.
Mặc dù các quốc gia phản đối yêu sách của Trung Quốc dựa trên phán quyết được thiết lập hợp pháp theo Điều 297 của UNCLOS, Trung Quốc vẫn kiên quyết với yêu sách lịch sử đơn phương của họ đã bị các diễn giải phán quyết của Tòa Trọng tài bác bỏ.
“Về mặt chính trị, việc thực thi Tuyên bố của ASEAN về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) và chuyện ra đời sớm Bộ quy tắc ứng xử (COC) vẫn là nền tảng tốt nhất để đối thoại và tham vấn giữa ASEAN và Trung Quốc về tranh chấp biển Đông, nhưng tất nhiên điều này là vì sự ổn định khu vực, hơn là giải quyết các yêu sách hàng hải. Tuy nhiên, bất kỳ cách nào được chọn cần phải được bắt nguồn từ một lý do chính đáng”, ông Amri viết.