Tổng Thanh tra Chính phủ: Rất khó phát hiện tham nhũng 'lợi ích nhóm'

Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh
Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh
TPO - “Tham nhũng có lợi ích nhóm thường là những vụ tham nhũng nghiêm trọng và phức tạp. Loại tham nhũng này rất khó phát hiện vì có sự gắn kết, đồng thuận của nhóm lợi ích”, Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh trao đổi riêng với Tiền Phong bên lề Quốc hội về công tác phòng, chống tham nhũng.

Năm 2015, các vụ án, vụ việc tham nhũng gây thiệt hại gần 1 nghìn tỷ đồng, 10 nghìn m2 đất. Nhiều Đại biểu Quốc hội đánh giá cao mức độ thu hồi tài sản tham nhũng, song cũng có ý kiến cho rằng, con số này còn nhiều hạn chế khi chỉ thu hồi được hơn 500 tỷ và gần 3 nghìn m2 đất. Xin ông cho biết nguyên nhân của tình trạng này?

Thu hồi tài sản tham nhũng và tịch thu tài sản do tham nhũng mà có là hoạt động quan trọng và là một trong những thước đo hiệu quả của công tác đấu tranh chống tham nhũng. Thu hồi tài sản tham nhũng nhằm khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng gây ra cho xã hội; lấy lại nguồn lực của Nhà nước, của nhân dân đã bị chiếm đoạt; hạn chế và triệt tiêu động cơ kinh tế của hành vi tham nhũng. 

Với nỗ lực của các cấp, các ngành và nhất là các cơ quan chức năng PCTN thì trong những năm gần đây, việc thu hồi tài sản tham nhũng đã được đặc biệt chú trọng, kết quả ngày càng tốt hơn, tỷ lệ thu hồi tài sản năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên kết quả đạt được vẫn còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của công tác PCTN và kỳ vọng của nhân dân. 

Nguyên nhân chủ yếu là do yếu tố chủ quan như: Một số quan điểm, chủ trương của Đảng về thu hồi tài sản tham nhũng chưa được thể chế hóa kịp thời; các quy định của pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng phần lớn mang tính nguyên tắc, quy định trách nhiệm của từng cơ quan và quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chưa rõ ràng; việc nội luật hóa các quy định về thu hồi tài sản theo Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng còn chậm. Cơ chế kiểm soát tài sản, kiểm soát thu nhập, quản lý các giao dịch về tài sản còn bất cập. Hệ thống đăng ký tài sản chưa phát triển. Giải pháp minh bạch tài sản, thu nhập nhằm phòng ngừa tham nhũng còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp.

Công tác phát hiện tham nhũng còn hạn chế, không kịp thời. Không ít trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng chưa chú ý, không kịp thời áp dụng các biện pháp tư pháp, biện pháp khẩn cấp tạm thời: kê biên, tạm giữ, cấm dịch chuyển tài sản, phong tỏa tài khoản của bị can, bị cáo, tổ chức có liên quan v.v...  Việc xác định tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng hoặc bị thiệt hại do tham nhũng trong nhiều vụ việc rất phức tạp. Nhiều vụ còn có trở ngại từ công tác giám định tư pháp. 

Ngoài ra, cũng có những nguyên nhân khách quan làm giảm hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng như: Tội phạm tham nhũng thuộc nhóm tội có độ ẩn cao cả về hành vi phạm tội và tài sản bị chiếm đoạt. Kẻ phạm tội luôn có xu hướng che dấu, tẩu tán, hợp pháp hóa những tài sản do tham nhũng mà có, kể cả tẩu tán tài sản ra nước ngoài, dẫn đến khó khăn cho việc truy tìm, thu hồi tài sản. Nhiều trường hợp, dù cơ quan chức năng sớm phát hiện vụ việc nhưng tội phạm tham nhũng đã sử dụng phần lớn tài sản, tiêu dùng hoang phí, khi bị phát hiện đã không còn khả năng khắc phục hậu quả... Tương trợ tư pháp trong giải quyết các vụ án tham nhũng có yếu tố nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn, thời gian thường bị kéo dài và nhiều khi không phải do nguyên nhân từ phía các cơ quan của Việt Nam.

Vậy giải pháp để nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản trong thời gian tới là gì, thưa ông?

Để có thể thu hồi triệt để tài sản tham nhũng, làm triệt tiêu động cơ kinh tế của tội phạm tham nhũng thì giải lâu dài là phải tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các chính sách, pháp luật có liên quan theo hướng tăng cường quản lý tài sản, thu nhập của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, hạn chế tiêu dùng tiền mặt và mở rộng tương trợ tư pháp quốc tế… 
Trước mắt phải tập trung thực hiện ngay các giải pháp nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan chức năng trong việc thu hồi tài sản như: Chú trọng áp dụng kịp thời các biện pháp phong tỏa, kiểm soát để thu hồi tài sản tham nhũng ngay trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo quy định của pháp luật; Tăng cường các hoạt động phòng, chống rửa tiền, tình báo tài chính; Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác PCTN, thu hồi tài sản tham nhũng; quan tâm đầu tư các phương tiện kỹ thuật, thiết bị cần thiết cho việc theo dõi, truy tìm những tài sản tham nhũng đã bị tẩu tán, che dấu, tẩy rửa.

Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương, cơ quan liên quan hiện đang triển khai tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN, trong đó có tổng kết, đánh giá sâu chuyên đề về thu hồi tài sản tham nhũng để chuẩn bị cho việc sửa đổi toàn diện Luật PCTN, đưa ra những biện pháp mạnh mẽ hơn để nâng cao hiệu quả công tác PCTN nói chung và hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng nói riêng trong thời gian tới.

Tham nhũng còn nhức nhối, diễn ra ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhưng số vụ tham nhũng bị phát hiện lại giảm trong năm 2015. Thẩm tra báo cáo Ủy ban Tư pháp đề nghị phải nghiêm túc xem xét vấn đề này, còn một số Đại biểu Quốc hội thì cho rằng, điều này chứng tỏ việc chống tham nhũng chưa hiệu quả. Xin hỏi ý kiến của ông về vấn đề này? 

Thông thường, kết quả phát hiện, xử lý tham nhũng trong một năm được đánh giá thông qua số vụ, số đối tượng có hành vi tham nhũng được phát hiện, xử lý qua công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và qua các hoạt động tố tụng. Năm nay kết quả phát hiện, xử lý tham nhũng qua hoạt động điều tra, truy tố, xét xử có giảm, trong khi đó tình hình tham nhũng được nhận định là vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp. Do đó việc Ủy ban Tư pháp đề nghị phải nghiêm túc xem xét vấn đề này và có Đại biểu Quốc hội cho rằng việc chống tham nhũng chưa hiệu quả là cũng vì lý do như vậy.

Việc khởi tố điều tra, truy tố, xét xử tội phạm tham nhũng năm 2015 giảm do một số nguyên nhân chính sau: Có một số vụ án lớn được dư luận quan tâm, cho rằng có dấu hiệu tham nhũng nhưng cơ quan chức năng đang xem xét hoặc bước đầu mới khởi tố bằng những tội danh khác nên theo quy định, các vụ án này chưa được thống kê trong kết quả phát hiện, xử lý tội phạm tham nhũng năm 2015.

Tội phạm về tham nhũng có xu hướng ngày càng tinh vi theo sự phát triển của kinh tế - xã hội, chủ thể của loại tội này nhìn chung là có học thức, hiểu biết sâu rộng, có địa vị cao trong xã hội, có nhiều mối quan hệ. 

Đối với những vụ án tham nhũng lớn, nghiêm trọng thường có nhiều đối tượng tham gia, có quan hệ chặt chẽ với nhau, thông tin khép kín trong phạm vi nhất định, nên khó để phát hiện. Các vụ việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn, làm trái nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi nếu xảy ra trong doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp cổ phần do Nhà nước chi phối thì sẽ khởi tổ, điều tra về tội danh tham nhũng. Nhưng do việc đẩy mạnh cổ phần hoá, thoái vốn trong các doanh nghiệp nhà nước đã thu hẹp phạm vi chủ thể là người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp. 

Do đó thực tế cơ quan chức năng đã phát hiện những vụ chiếm đoạt tài sản xảy ra trong doanh nghiệp cổ phần mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối thì phải xử lý bằng các tội danh như lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản...

Ngoài, cũng có một số nguyên nhân chủ quan như: Hạn chế, khó khăn, trong quá trình xác minh, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm về tham nhũng, áp dụng biện pháp điều tra đối tượng tham nhũng, trong định tội danh, xác định tính chất, mức độ của hành vi tham nhũng, mức độ thiệt hại. Việc tự phát hiện, tự kiểm tra phát hiện các vụ việc tham nhũng trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị rất kém.

Công tác giám định tư pháp còn nhiều bất cập, thời hạn giám định quá dài nên khó khăn cho việc khởi tố, kết luận điều tra, thậm chí không truy tố được do không xác định được thiệt hại. Một số cơ quan được trưng cầu giám định từ chối hoặc né tránh; kết luận giám định không chính xác hoặc phải giám định nhiều lần dẫn đến thời hạn điều tra một số vụ án bị kéo dài. Đội ngũ giám định viên, người giám định, tổ chức giám định theo vụ việc tại các bộ, ngành Trung ương, địa phương còn thiếu nên việc trưng cầu gặp khó khăn. Bên cạnh đó, trình chuyên môn của giám định viên trong nhiều trường hợp chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.

Việc xác định chủ thể của các tội phạm tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 277 Bộ luật hình sự, trong thực tiễn về nhận thức và áp dụng chưa thống nhất trong cấu thành tội phạm của một số tội danh, dẫn đến khó khăn, chậm trễ trong việc khởi tố, truy tố, xét xử.

Mặc dù kết quả phát hiện tham nhũng có giảm nhưng nếu phân tích sâu một số chỉ số khác thì có thể thấy rõ hơn nỗ lực của các cơ quan chức năng cũng như hiệu quả của công tác chống tham nhũng năm 2015:  

Một là, kết quả phát hiện tham nhũng qua hoạt động thanh tra năm nay tăng hơn nhiều so với năm trước (tăng 85% số vụ, 97,7% số đối tượng), đây cũng là kết quả đầu vào quan trọng tạo cơ sở cho việc tăng cường công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ tham nhũng trong thời gian tới.

Hai là, Mặc dù số vụ án được xét xử giảm nhưng tỷ lệ tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng được tuyên án lại tăng hơn so với năm 2014, tỷ lệ án treo tiếp tục giảm. Điều đó thể hiện tính chất của các vụ án đã được giải quyết trong năm nay phức tạp, nghiêm trọng nhiều hơn năm trước. 

Cùng là một vụ tham nhũng nhưng vụ án có ít bị can, hành vi phạm tội rõ ràng, ít nghiêm trọng thì việc điều tra, truy tố, xét xử thuận lợi hơn nhiều. Ngược lại, có những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, nhiều bị can, tình tiết phức tạp, gây thiệt hại lớn thì việc xem xét, xử lý có thể khó khăn hơn giải quyết hàng chục vụ án tham nhũng khác. 

Ba là, kết quả thu hồi tài sản tham nhũng cũng tăng cao hơn nhiều so với những năm trước. Năm 2015 thu hồi đạt 55,8%, trong khi tỷ lệ này năm năm 2014 là 22,3%, năm 2013 là 10% và trước đó còn thấp hơn.
Tuy vậy thì việc phát hiện, khởi tố, truy tố, xét xử tội phạm tham nhũng năm 2015 giảm so với năm trước là chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của công tác PCTN và kỳ vọng của Quốc hội, nhân dân, nhất là trước thực trạng tham nhũng còn nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, gây bức xúc trong dư luận xã hội như hiện nay.

Báo cáo Quốc hội, Chính phủ cho rằng ngoài tham nhũng vặt đã xuất hiện tình trạng tham nhũng mang tính chất lợi ích nhóm. Xin đồng chí cho biết cụ thể hơn về nội dung này? Tham nhũng lợi ích nhóm nguy hiểm và gây nguy cơ như thế nào?

Trong báo cáo của Chính phủ về công tác PCTN năm 2015 có đánh giá: “Đã xuất hiện tình trạng tham nhũng có tính lợi ích nhóm trong một số lĩnh vực”. Thực ra đây không hoàn toàn là nhận định mới mà ngay từ năm 2014, khi tổng kết công tác PCTN, tại Báo cáo số 80 -/BCBCĐTW ngày 15/5/2014 của Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN cũng đã nêu lên nhận định này. 

Bước sang năm 2015, Chính phủ tiếp tục nhận thấy những biểu hiện như vậy trên một số lĩnh vực nên đã thẳng thắn đưa vào báo cáo trình Quốc hội. “Tham nhũng có tính lợi ích nhóm” trong năm 2015 có những biểu hiện cụ thể như: Một số vụ án tham nhũng gồm nhiều đồng phạm, ở nhiều vị trí công tác khác nhau trong đơn vị, cùng thống nhất thực hiện hành vi tham nhũng để lấy tiền, tài sản chi dùng chung cho các hoạt động của đơn vị, thậm chí là chi cho hoạt động của các tổ chức, đoàn thể, phúc lợi chung cho cán bộ, công chức, viên chức trong đơn vị và qua đó những người thực hiện hành vi tham nhũng cũng vụ lợi cá nhân về vật chất và cả tinh thần. Ví dụ cụ thể nhất là vụ Ban quản lý dự án đường sắt vừa được đưa ra xét xử mới đây.

Theo báo cáo của ngành ngân hàng, năm 2015 cũng đã phát hiện một số thành viên Hội đồng quản trị của ngân hàng có lợi ích nhóm, tham gia góp vốn, mua cổ phần để nắm giữ vị trí chủ chốt của các tổ chức tín dụng cổ phần; lợi dụng vị trí để cho vay các công ty sân sau, công ty mà mình có lợi ích liên quan...

Tham nhũng có lợi ích nhóm thường là những vụ tham nhũng nghiêm trọng và phức tạp. Loại tham nhũng này rất khó phát hiện vì có sự gắn kết, đồng thuận của nhóm lợi ích. 

Trong cơ quan, tổ chức, đơn vị thì nó làm triệt tiêu các công cụ kiểm tra, giám sát nội bộ, lấn át, thậm chí là vô hiệu hoá các thiết chế dân chủ cơ sở và vai trò của các tổ chức, đoàn thể, cán bộ, công chức, viên chức. 

Nguy hiểm nhất là việc các đối tượng tham nhũng có tính lợi ích nhóm lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để tạo ra những cơ chế, chính sách hoạt động để vụ lợi cho một nhóm, trong đó có lợi ích của bản thân mình mà bất chấp việc phương hại đến lợi ích của nhà nước, lợi ích chung của xã hội. 

Tham nhũng có tính lợi ích nhóm nếu phát triển sẽ làm gia tăng tính chất nguy hiểm của hành vi tham nhũng, lũng đoạn hoạt động quản lý và sẽ là mối nguy hại, thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân.

Có Đại biểu Quốc hội cho rằng, hiện chúng ta mới chỉ phòng ngự tham nhũng và phải đến năm 2018 mới có thể phản công. Tổng Thanh tra nhìn nhận thế nào về việc này? Liệu năm 2018 có phản công được và chúng ta dựa vào các giải pháp đột phá gì để đẩy lùi tham nhũng?

“Phòng ngự” và “phản công” là một cách hình tượng hóa rất sát với mục tiêu PCTN đã được Chính phủ đề ra trong Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020 là “ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng”. 
Qua kết quả đánh giá công tác PCTN thời gian qua, Chính phủ nhận thấy vừa qua chúng ta mới thực hiện được việc ngăn chặn tham nhũng trên một số lĩnh vực. Chưa có nhận định nào thể hiện đã đẩy lùi được tham nhũng. Nếu nhận định như vậy thì chưa có đủ cơ sở lý luận, thực tiễn để minh chứng và chắc chắn là trong thời điểm hiện nay, sẽ chưa nhận được sự đồng thuận của Quốc hội và dư luận xã hội.

Năm 2016 là năm đầu tiên thực hiện Giai đoạn thứ 3 của Chiến lược Quốc gia PCTN đến năm 2020 (giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020). Do đó, để đạt được mục tiêu “từng bước đẩy lùi tham nhũng” thì các cấp, các ngành, cả hệ thống chính trị cùng phải nỗ lực vào cuộc, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược đã đề ra mà một trong đó là việc tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN, xây dựng dự án Luật PCTN sửa đổi trình Quốc hội trong năm 2016.

Tuy nhiên không phải là đợi đến khi có Luật PCTN sửa đổi, dự kiến có hiệu lực thi hành từ năm 2018 thì chúng ta mới có điều kiện và cơ hội để đẩy lùi hay “phản công” tham nhũng. Mà ngay từ bây giờ, phải tiếp tục nỗ lực thực hiện với những giải pháp đồng bộ, bước đi vững chắc thì có thể sớm đạt được kết quả “bước đầu đẩy lùi tham nhũng trên một số lĩnh vực”. Đó chính là những lĩnh vực mà tham nhũng đã được ngăn chặn trong thời gian qua. Tiến tới chúng ta sẽ ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và thực hiện thành công mục tiêu đã đề ra khi kết thúc giai đoạn thứ 3 thực hiện Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020. 

Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải hết sức kiên trì, kiên quyết, thận trọng, không được chủ quan, bởi nếu không nỗ lực thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra thì mục tiêu chung “ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng” hay nói theo cách hình tượng hoá của đại biểu quốc hội là “phản công tham nhũng” cũng sẽ khó đạt được vào năm 2020 khi kết thúc kỳ Chiến lược.

Kinh nghiệm của nhiều chuyên gia quốc tế về PCTN đã rút ra công thức:

Tham nhũng = Độc quyền + Bưng bít thông tin – Trách nhiệm giải trình

Vậy từ kinh nghiệm quốc tế như vậy thì liệu có công thức phòng, chống tham nhũng phù hợp với điều kiện của Việt Nam hay không? từ thực tiễn quản lý nhà nước về PCTN thời gian qua, tôi đã tự rút ra cho mình công thức:

PCTN = Hoàn thiện thể chế + Phát huy dân chủ, công khai, minh bạch + Trách nhiệm giải trình

Muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả PCTN thì phải tăng cường hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật; phát huy dân chủ, mở rộng công khai, minh bạch và tăng cường trách nhiệm giải trình.

Hoàn thiện thể chế là vừa phải tăng cường rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về PCTN để hoàn thiện các công cụ phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, đồng thời cũng phải hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội để bịt chặt những kẽ hở của pháp luật dễ làm nảy sinh tham nhũng.

Phát huy dân chủ trong PCTN là việc vừa tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đoàn thể trong công tác PCTN; đẩy mạnh công tác phát hiện, xử lý nghiêm tham nhũng thông qua hoạt động của các cơ quan chức năng và các cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát vừa phải đặc biệt chú trọng, phát huy mạnh mẽ vai trò, trách nhiệm của xã hội trong PCTN, nhất là các thiết chế dân chủ trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, ở cơ sở và vai trò của quần chúng nhân dân.

Mở rộng công khai, minh bạch trong PCTN là việc công khai, minh bạch cả quá trình hoạch định, xây dựng và thực thi chính sách pháp luật; việc ban hành và thực hiện các quyết định hành chính cá biệt; công khai hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và bảo đảm quyền chủ động tiếp cận thông tin của người dân, doanh nghiệp.
Tăng cường trách nhiệm giải trình trong PCTN là việc bảo đảm các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền luôn phải thực hiện tốt trách nhiệm cung cấp thông tin, giải thích, giải trình, làm rõ các thông tin về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trước Quốc hội, trước nhân dân và ngay trong nội bộ mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị theo quy định của pháp luật.

Trong nhiệm kỳ này, các yếu tố trong công thức PCTN nêu trên đều có những chuyển biến tích cực.

Cảm ơn ông!

MỚI - NÓNG